Trương Nhân Tuấn – Gửi cho BBCVietnamese.com – Cập nhật: 13:06 GMT – thứ hai, 1 tháng 10, 2012
Hai bên Việt-Trung đã bắt đầu lên tiếng tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1909. Thế chiến thứ Hai làm tăng vai trò chiến lược của các đảo, vì nước nào chiếm giữ các đảo ở đây không chỉ có thể kiểm soát các hải đạo ở biển Đông mà còn có thể đặt các căn cứ quân sự khống chế các nước chung quanh.
Các thập niên sau sự tiến bộ về luật Biển đã khiến các đảo khu vực này mang thêm tầm quan trọng mới: các đảo có thể làm nền tảng để quốc gia đòi hỏi vùng biển chung quanh (có thể rộng đến 200 hải lý) cùng quyền sở hữu các tài nguyên trong cột nước, trên mặt và dưới thềm lục địa. Sau này, các túi dầu khí dưới thềm lục địa các đảo được khám phá, việc này làm cho Hoàng Sa và Hoàng Sa tăng thêm quan trọng về kinh tế chiến lược. Ngoài hai phía tranh chấp chính là Việt Nam – Trung Quốc (và Đài Loan), bắt đầu từ năm 1909, các nước chung quanh, thập niên 50 và 70, (Phi, Mã Lai…) cũng lần lượt lên tiếng đòi chủ quyền các đảo. Tranh chấp vì vậy mang tính địa chiến lược, do đó dẽ dàng lôi kéo các cường quốc ngoài khu vực tham dự.
Về bối cảnh ra đời, GS Joële Nguyễn cho rằng công hàm 1958 cần phải được xét trong bối cảnh “Trung Quốc có xung đột cao với Hoa Kỳ. Lại có cuộc chiến Triều Tiên năm 1950. Các cuộc tấn công các đảo Quemoy và MaTrường Sau năm 1954-1955 và năm 1958 để giải phóng Đài Loan, đã dẫn đến phản ứng của Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan.”
Thực ra Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đã ký hiệp ước an ninh hỗ tương từ ngày 2 tháng 12 năm 1954. Điều 5 xác định nghĩa vụ hai bên khi có các cuộc tấn công của nước thứ ba và phương cách đối phó tùy theo hiến pháp của hai nước. Điều 7 cho phép Hoa Kỳ được đặt các căn cứ bộ binh, không quân và hải quân trên đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và vùng chung quanh. đọc tiếp
