Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England

Dân Tộc Việt Nam Tự Do – Quê Hương Việt Nam Trường Tồn

Archive for June 1st, 2012

Obama đề cử 2 phụ nữ gốc Việt vào ban lãnh đạo Quỹ Giáo dục Việt Mỹ

Posted by Webmaster on June 1, 2012

Cuộc gặp mặt của các nghiên cứu sinh theo học bổng của Quỹ VEF (theo trang mạng duhoc.com)Trọng Thành – RFI – THỨ TƯ 30 THÁNG NĂM 2012

Trung tuần tháng 5 vừa qua, Chính phủ Hoa Kỳ ra thông cáo báo chí về việc Tổng Thống Obama quyết định đề cử vào Hội đồng quản trị Quỹ Giáo dục Việt Nam hai nhà hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực giáo dục, bà Nguyễn Phúc Anh Lan và bà Vương Ngọc Quyên.

Quỹ Giáo dục Việt Nam – Vietnam Education Foundation – là một cơ quan do chính phủ liên bang Hoa Kỳ lập ra để hỗ trợ các hợp tác về giáo dục giữa Mỹ và Việt Nam, bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2003. Hàng năm Quốc hội Hoa Kỳ dành khoảng 5 triệu đô la cho Quỹ tới năm 2018. Cho đến nay, khoảng 400 nghiên cứu sinh Việt Nam đã và đang du học tại Hoa Kỳ với học bổng của VEF, bên cạnh đó khoảng 30 nhà nghiên cứu Việt Nam đã được sang Mỹ theo chương trình học giả của VEF, và nhiều giáo sư người Mỹ đã sang giảng dạy tại Việt Nam với tài trợ của VEF.

Các lĩnh vực nổi bật được VEF chú ý đến là các ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn, với mục tiêu giúp cho các sinh viên Việt Nam có thể được đào tạo và nghiên cứu ở trình độ cao, sau khi trở về nước có khả năng đóng góp cho Việt Nam trong sự nghiệp giáo dục và khoa học, cũng như tăng cường các hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong thời gian gần đây, theo thông tin của báo chí, việc tuyển chọn ứng viên sang Mỹ được chú ý điều chỉnh theo hướng chú ý đến nữ giới, các ngành nghề có nhu cầu cao ở Việt Nam, cân đối các vùng miền, và dự kiến sẽ tăng cường hỗ trợ cho các ngành mới và các khoa học xã hội – nhân văn. đọc tiếp

Posted in Người Việt - Nước Việt | Tagged: , | Leave a Comment »

Những Chuyện Trong Ngày: Thứ bảy, 2-6-2012

Posted by Webmaster on June 1, 2012

Xin bấm vào tựa bài để đọc trọn bài từ nguồn trích dẫn.

BBC Tiếng Việt  –  Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện ‘bị điều tra’

Chính quyền không hài lòng về blog của ông Nguyễn Xuân DiệnThứ sáu, 1 tháng 6, 2012

Trang blog của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đóng chiều nay 1/6 còn ông vẫn đang bị Sở Thông tin – Truyền thông Hà Nội điều tra.

Theo giấy hẹn, vị tiến sĩ công tác ở Viện Hán Nôm, nhưng được biết nhiều qua blog với chủ đề chính trị – xã hội, đã đến văn phòng Thanh tra Sở Thông tin – Truyền thông Hà Nội lúc 13h30 hôm nay.  Cùng đi với ông Diện có bà Lê Hiền Đức và luật sư Hà Huy Sơn.

Kể lại với BBC tối nay giờ Hà Nội, luật sư Sơn cho hay tại văn phòng có chánh thanh tra Nguyễn Văn Minh, và cả một số nhân viên an ninh.  Cơ quan nhà nước yêu cầu bà Đức và luật sư Sơn ra ngoài.
“Tôi nói theo luật, công dân có quyền được hỗ trợ pháp lý. Sau khi tôi trình thẻ luật sư, họ lại yêu cầu giấy giới thiệu của văn phòng.”
“Vì đi vội, tôi không có giấy này. Họ lấy lý do đó để buộc tôi ra ngoài,” luật sư Sơn cho biết.

Điều tra trang blog

Theo vị luật sư, đến khoảng 5 giờ chiều, ông Nguyễn Xuân Diện mới ra khỏi phòng làm việc.
“Anh ấy kể là bà Đức không đồng ý ra ngoài. Khoảng bốn bảo vệ vào khiêng bà đi, nghe nói có xô xát.”
“Họ có ghi lại biên bản, nói bà Đức xông vào cơ quan. Bà Đức vẫn ở trong văn phòng Sở, yêu cầu gọi công an phường đến lập biên bản.”

Luật sư Sơn nói đến khoảng 7h tối giờ Việt Nam, ông được tin bà Đức vẫn còn kiên quyết ở lại trong văn phòng của thanh tra Sở.

Ψ

BBC Tiếng Việt  –  TQ ‘né tránh’ đối thoại an ninh vùng?

Hồng Nga – BBCVietnamese.com, Singapore – Cập nhật: 10:13 GMT – thứ sáu, 1 tháng 6, 2012

Những ai theo dõi diễn đàn an ninh khu vực mang tên Đối thoại Shangri-La (theo tên của khách sạn ở Singapore, nơi tổ chức hội nghị) nhiều năm liên tục chắc không khỏi thắc mắc khi biết tin Trung Quốc đột ngột ‘giáng cấp’ thành phần tham dự.

Tại Shangri-La lần thứ 10 năm ngoái, trưởng đoàn Trung Quốc là Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt, cấp cao nhất từ năm 2007, khi nước này bắt đầu tham gia diễn đàn thường niên.

Năm 2010, Trung Quốc cử Phó Tổng tham mưu trưởng Mã Hiểu Thiên tham dự hội nghị.

Năm nay, cũng là năm thứ 11 của Đối thoại Shangri-La, đoàn Trung Quốc do Trung tướng Nhiệm Hải Tuyền, Phó giám đốc Học viện Khoa học Quân sự Trung Quốc dẫn đầu.

Ông Nhiệm về danh chính ngôn thuận chỉ là quan chức cấp vụ và nghiêng về học thuật nhiều hơn.

Thành phần đoàn Trung Quốc tương phản một cách gần như đối nghịch với đoàn Hoa Kỳ. Giống như năm ngoái, Mỹ cử tới Singapore một đoàn hùng hậu, đứng đầu là Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta.

Bên cạnh ông Panetta, là hai chỉ huy quân đội – Tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân; và Đô đốc Sam Locklear, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.

Lẽ dĩ nhiên, việc Bộ trưởng Lương Quang Liệt không tới Đối thoại Shangri-La gây ra nhiều đồn đoán.

Đọc thêm:  

TQ bắt nghi phạm gián điệp cho Mỹ

Ψ

RFA Tiếng Việt  –  Lỗi hệ thống

Một trong những con tàu của VinalinesVụ sụp đổ Vinashin rồi bê bối thua lỗ ở Vinalines cùng nhiều tập đoàn tổng công ty nhà nước đã phơi bầy sự hư hỏng lớn, kèm theo mối quan ngại sâu xa cho khu vực xương sống nền kinh tế.

Vòng luẩn quẩn

Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới tại Việt Nam bà Victoria Kwakwa tuyên bố hôm 23/5 tại Hà Nội: “Càng ngày càng có thêm bằng chứng cho thấy, sẽ vẫn còn những vụ Vinashin khác và cần có những phương thức đáng tin cậy để xem xét các vấn đề của doanh nghiệp Nhà nước.”
Đảng Cộng sản Việt Nam hồi trung tuần tháng 5 tái khẳng định chế độ tập quyền xã hội chủ nghĩa và do Đảng lãnh đạo. Về chế độ kinh tế, Việt Nam tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

GSTS Nguyễn Thế Hùng hiện sống và làm việc ở Đà Nẵng sử dụng ngôn từ kỹ thuật để ví von tính bất cập của thể chế ở Việt Nam:

“Bây giờ bệnh mà không chữa tận gốc thì chết. Cũng giống như một cái máy bị lỗi hệ thống thì phải chữa từ cái lỗi gốc của nó…Một cái hệ thống mà quyền hành tập trung, anh vừa đá bóng vừa thổi còi thì làm sao có một trận đá bóng gọi là công bằng được… Montesquieu ngày xưa đã nói có quyền sẽ sinh ra lạm quyền…quyền hành và tham nhũng nó quấn quýt với nhau như bóng với hình cho nên chuyện này chúng ta cứ mãi luẩn quẩn như thế.”

Posted in Những Chuyện Trong Ngày | Tagged: | Leave a Comment »

Khi Tổ quốc gọi ta…

Posted by Webmaster on June 1, 2012

Trịnh Kim Tiến: Khi Tổ quốc gọi ta...Dân Làm Báo
Trịnh Kim Tiến – Ngày 05/06/2011 là một ngày đáng nhớ đối với những người tham gia biểu tình yêu nước chống Trung Quốc và những ai căm phẫn, sôi sục trước sự bành trướng ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông. Tôi nghĩ, mỗi người đều có những cảm xúc khác nhau về ngày này, riêng cá nhân tôi, một người đã tham gia đoàn biểu tình, tôi thấy xao xuyến lắm. Khó mà tả được cái cảm giác lâng lâng, nuối tiếc, thèm thuồng và hy vọng.
Đã gần một năm qua đi kể từ ngày chung tay đều bước cất lên tiếng ca Việt Nam quê hương ta, “này người anh em”… đến hôm nay nhìn lại, bọn Tàu kia vẫn ngang nhiên cắt cáp dầu khí, bắt giữ tàu đánh cá, ngư dân Việt Nam, tàu của chúng tràn ngập biển Đông. Chúng tận lực khai thác ngay trên biển đảo quê hương ta mà nói đó là điều rất đỗi bình thường.  Máu căm hờn ai thấy cũng sục sôi, hào khí xưa con cháu Tiên Rồng, sự dồn nén, cam chịu khiến cho những người con nhìn về Tổ quốc, nhìn về nơi hải đảo xa xôi Hoàng Sa – Trường Sa yêu dấu trong nỗi uất nghẹn, đau buồn. Cảm xúc ứ đọng thành những giọt nước mắt nặng hạt đong đầy trong khóe mi cay.
Ngày này của năm trước, tôi không có can đảm viết và nói ra như ngày hôm nay. Có lẽ cũng do biến cố gia đình khiến tôi hiểu biết nhiều hơn. Nhưng rõ ràng là, nó không liên quan đến những gì mà tôi đã làm, không liên quan đến bước chân đồng hành trong đoàn biểu tình của những ngày hè oi ả, nắng cháy hăng say một năm trước.

Cũng có thể có nhiều người ác ý hay cố tình đánh tráo khái niệm cho rằng tôi đang mập mờ giữa hai chuyện đó. Nhưng họ quên đi một điều đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Tôi đã từng nói cũng như trả lời rất nhiều cuộc phỏng vấn để thể hiện rõ quan điểm cá nhân:

– Tôi đòi công lý cho bố mình với tư cách là một người con.
– Tôi tham gia biểu tình yêu nước với tư cách một người công dân.
Xin đừng đánh đồng những điều đó với nhau.
Không thể nói tôi tham gia vào hoạt động yêu nước là tôi phải vứt bỏ công việc của gia đình mình.
Càng không thể cho rằng tôi đấu tranh đòi sự công bằng minh bạch cho cái chết của bố mình thì tôi không được quyền yêu nước.
Và tôi cảm thấy rằng không ai có quyền chất vấn tôi khi không trực diện, thẳng thắn mà phải ẩn mình thông qua những người khác, những blog khác, bởi vì những gì tôi làm đều là trách nhiệm mà tôi nghĩ phải làm. Tôi không nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ làm điều gì sai, bởi phàm là con người thì khó có ai có thể tránh khỏi sai lầm. Nhưng tôi có thể chắc chắn một điều rằng: Tôi chưa làm sai điều gì đối với người khác, đối với gia đình, và đối với đất nước của tôi.
Khi tôi bước chân xuống đường tôi chưa hề nghĩ đến một ngày người ta biết tôi là ai, không nghĩ cuộc đời sẽ đưa đẩy tôi đến với những người bạn nào. Khi đọc được lời kêu gọi biểu tình yêu nước chống Trung Quốc trên mạng, qua tìm hiểu trên Facebook, tôi biết được đất nước tôi, quê hương tôi đang phải đối diện, trải qua những khó khăn, sự đe dọa, rình rập, xâm lược của tên hàng xóm xấu bụng mà báo chí vẫn gọi là “láng giềng tốt”. Tôi đã quyết định tham gia vào cuộc biểu tình khẳng định chủ quyền của dân tộc mình, khẳng định quyền của một công dân trong một đất nước độc lập với truyền thống yêu nước với bốn ngàn năm lịch sử.
Nhưng ngày 05/06 năm ngoái, tôi không có xuống đường. Tôi không bước từng bước, hô từng tiếng vang “Hoàng Sa- Trường Sa là của Việt Nam”, “Phản đối Trung Quốc xâm lược”. “Bảo vệ chủ quyền Việt Nam, bảo vệ toàn  vẹn lãnh thổ, bảo vệ ngư dân Việt Nam”…
Tôi có đi, tôi có đến chỗ mọi người biểu tình, có nhìn thấy những đoàn người từ nhiều ngả trên đường phố hô vang. Nhưng tôi đã không có can đảm bước xuống cùng họ. Tôi không có biết là xuống đó biểu tình rồi có sao không nữa, rồi có bị bắt, có bị xử phạt hay như thế nào đó không. Tôi không có kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết nhiều trong việc đó, trong khi tôi lại đi xe, không biết gửi sao cho tiện. Tôi chỉ đi qua, dừng xe lại, cầm chiếc máy ảnh du lịch trên tay và bấm lấy những bức hình. Qua Bờ Hồ rồi vòng lên đường Hàng Bông, những đoàn người khác nhau, nhưng những giọt mồ hôi trên khuôn mặt của những người tham gia biểu tình như hoà cùng máu và nước mắt của cha ông đã đổ xuống vì quê hương thân yêu. Những tiếng hát, lời ca như bùng lên dữ dội trong sự kìm nén. Tôi nhìn họ bằng ánh mắt thèm thuồng, bằng sự ham muốn tột bậc, sự ham muốn được “YÊU NƯỚC”, chẳng có gì hơn, họ đã truyền cho tôi nghị lực và sức mạnh của lòng dũng cảm. Và tôi quyết định, một quyết định gan dạ và táo bạo, có thể nói như vậy với lúc bấy giờ, vào khoảng thời gian đó của tôi, tôi bước xuống đường, bước  ra khỏi những lý thuyết của sự sợ hãi, ngày 12/06 tôi đã xuống đường. Đó là sự kỳ diệu đối với tôi, đúng vậy, nhận thức là cả một quá trình. Vượt qua nỗi sợ hãi là cả một bài học.
Trong những buổi biểu tình, tôi có rất nhiều kỉ niệm, vui có, sợ có, lo lắng có, hoài nghi có, thậm chí đau lòng cũng có. Đau lòng là khi tôi chứng kiến, tôi nhìn thấy đồng bào tôi, những người đáng lẽ ra phải đứng về phía chúng tôi, bảo vệ chúng tôi, lại chĩa mũi nhọn, họng súng vào chúng tôi mà ngăn cản. Có khi thì tôi thấy thương yêu, thương những người mà tôi chưa gặp lần nào, khi họ bị bắt vì cũng như tôi đi biểu tình yêu nước mà đến tối mịt vẫn chưa được thả ra, đó là những anh chị em Sài Gòn ngày 17/07/2011 đã bị bắt, bị đánh. Tôi cũng thao thức như người thân của họ ngóng chờ họ trở về.  Về những  cô chú, anh chị em cùng tôi biểu tình ngoài Hà Nội thì rõ ràng tình cảm đó là chắc chắn, sự lo lắng và yêu thương khi họ bị bắt là không thể khác được với những nhịp đập hồi hộp của trái tim tôi vì ngoài chí hướng đồng  lòng của những con người cùng nhiệt huyết, chúng tôi còn có tình cảm chân tay, đồng đội mến thương, sẻ chia tiếp sức cho nhau trên con đường nắng cháy. Còn đây, những người kia là những người cách tôi cả ngàn cây số, tôi chưa bao giờ được tiếp xúc, hay nắm tay hô vang cùng họ một lần, vậy mà sao khi họ bị bắt đem đi, tôi lại thương lo họ đến vậy. Tất cả tình thương mến thương đó giữa chúng tôi, không hề có sự vụ lợi, toan tính hay nghĩ rằng mình làm để được gì cho bản thân, tất cả đều xuất phát từ một điểm duy nhất, đó là tình yêu  quê hương đất nước, tình yêu máu thịt đồng bào. Những con người không có trái tim và chỉ có những kẻ không có trái tim và bộ óc thì mới chối bỏ dân tộc mình, anh em mình, thì mới có thể nghĩ những giọt nước mắt, mồ hôi đang chảy của đồng bào mình là gian dối, là toan tính.
Ngày cũ đã qua đi, nhưng ngày mới sẽ lại tới, tôi tin rằng rồi một ngày, một ngày không  xa ấy, tất cả chúng ta, những con người Việt Nam, sẽ cùng “đứng chung đồng bào” để “Đáp lời sông núi”.
“Làm sao ngăn được tình yêu với quê hương, đi trên đường tay trong tay đều nhịp bước.
Để còn nhớ tiếng nói cha ông, giặc vào đây sẽ bại vong, còn ghi dấu Bạch Đằng Giang cuộn sóng.
Để ngày sau nhớ hôm nay người Việt Nam tay cầm tay. Tình yêu nước đến bên nhau đứng chung đồng bào.
Tổ Quốc gọi ta Hoàng Sa Trường Sa, rồi sẽ đến lúc chúng ta giành lại.
Nổi sóng biển đông, con cháu Tiên Rồng.
Này người anh em, nắm tay cùng tôi !”

Posted in Người Việt - Nước Việt, Tác giả trong nước | Tagged: | 1 Comment »

Tại sao là Miến Điện mà không phải Việt Nam?

Posted by Webmaster on June 1, 2012

Cô Huỳnh Thục Vy là một blogger được nhiều người biết

05:04:pm 31/05/12 | Tác giả: 

Đã gần hai tháng trôi qua nhưng dư âm của cuộc bầu cử Quốc hội bổ sung ở Miến Điện vẫn có sức lan tỏa lớn. Vẫn còn nhiều dè dặt, thậm chí là hoài nghi về những đổi thay chính trị chóng vánh ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không được quyền tin tưởng vào một tương lai mới, tốt đẹp hơn cho xứ sở vàng này.

Miến Điện thay đổi, Việt Nam thì chưa

Nhiều nguyên nhân của sự thay đổi được nói đến: 1/do tác động của Hoa Kỳ và phương Tây lên chính quyền Miến Điện vì họ không muốn Miến Điện với vị trí địa chính trị quan trọng, rơi vào tay Trung cộng; 2/do sức ép về sự nghèo khổ, lạc hậu và ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc; 3/do tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của những người lãnh đạo Miến Điện trước hiện trạng đất nước bị cô lập với thế giới ; 4/do sự đấu tranh ngoan cường của nhân dân Miến Điện dưới biểu tượng Aung San Suu Kyi, cùng với tác động của các cuộc nổi dậy ở Ả Rập khiến Nhà cầm quyền nhận thấy sự cần thiết phải nới lỏng chính sách cai trị “bàn tay sắt” của mình nếu không muốn chịu chung số phận với những kẻ độc tài đã ra đi ở Ả Rập…

Có thể mức độ tác động của những nhân tố này lên sự cải cách chính trị ở Miến Điện là không giống nhau, nhưng thiển nghĩ nguyên nhân của vấn đề nằm trong mối quan hệ cộng hưởng tất cả các nhân tố này. Không phải là cái này hay cái kia mà là tất cả; vấn đề là nhấn tố nào đóng vai trò cốt yếu, thúc đẩy các nhân tố còn lại.

Với nguyên nhân đầu tiên, tức là vị tri chiến lược của Miến Điện đã giúp họ, ta có thể đặt câu hỏi là Việt Nam với bờ biển dài nhìn ra một vùng biển chiến lược không quan trọng trong con mắt người phương Tây và Mỹ sao? Nếu căn cứ vào nguyên nhân thứ hai, tức tình trạng nghèo khổ và bị cô lập, thì ta ngỡ ngàng tự hỏi: Bắc Triều Tiên không nghèo khổ và bị cô lập với thế giới ư? Về nguyên nhân thứ ba, nếu tập đoàn độc tài Miến Điện yêu nước thì sao lại khiến Miến Điện kiệt quệ như thế rồi mới đổi ý, tại sao mới đây họ vẫn đàn áp đẫm máu các cuộc biểu tình năm 2007; lâu nay họ vẫn cai trị bằng chính sách khắc nghiệt, tại sao bỗng nhiên trở nên đầy lương tri như thế? Và với nguyên nhân cuối cùng, ta có thể nhận thấy rằng, người Mỹ và phương Tây chỉ can thiệp vào những nơi mà tự nó đã có một phong trào vững mạnh và cũng chính sự phản kháng mạnh mẽ ấy của người dân Miến mới là điều gợi lên trong tâm trí những kẻ cầm quyền ý muốn thay đổi nhiều nhất, vì họ cảm thấy thực sự bất an về tương lai của mình. Với kiến thức hạn hẹp của mình, tôi nghĩ, đây mới là nguyên nhân nền tảng, là điều kiện tiên quyết, ảnh hưởng đến các nguyên nhân còn lại.

Miến Điện phản kháng mạnh mẽ, Việt Nam thì chưa

Từ cách nhìn nhận rằng một phong trào quần chúng phản kháng bền vững và mạnh mẽ là vô cùng quan trọng, nhiều câu hỏi cứ quanh quẩn trong đầu tôi, và có lẽ cũng ám ảnh khá nhiều người. Tại sao ngay từ năm 1974 đã có những cuộc biểu tình lớn ở Miến Điện, và năm 1988 đã có nửa triệu người tham gia meeting nghe bà Aung San Suu Kyi đọc diễn văn? Tại sao năm 2007, hơn 20.000 người bao gồm các nhà sư và dân chúng Miến Điện đi biểu tình, còn Việt Nam vào năm 2011, số người đi biểu tình chỉ bằng 1/10 con số ấy vào lúc cao điểm (dù ở ta, chỉ là biểu tình phản đối Trung Quốc chứ không phải là biểu tình đòi tự do dân chủ-một đòi hỏi tiến bộ, quan trọng và cũng nhạy cảm hơn nhiều)?

Người Miến Điện không sợ hãi sao? Không, đã là con người không ai muốn mang sự an toàn và sinh mạng của mình ra thách đố, đặc biệt là thách đố những kẻ cai trị có vũ trang. Người Miến Điện cũng vậy. Bằng chứng là theo các phóng viên quốc tế có mặt tại Miến Điện, sau những tuyên bố cải cách của chính quyền, nhiều người dân còn rất dè dặt, có người còn không dám dừng lại nhìn ảnh Aung San và con gái quá lâu vì họ e ngại những sự “cởi trói” này là giả dối (kiểu như năm 1986 Nguyễn Văn Linh “cởi trói văn nghệ sĩ “).

Người Miến Điện dám dấn thân vì họ từng có kinh nghiệm với nền dân chủ ư? Đồng ý kinh nghiệm về một nền dân chủ là điều kiện thúc đẩy lòng kháo khát được sống tự do. Nhưng người dân bình thường rất dễ quên, trong một khoảng thời gian đủ dài bị cai trị quá khắt nghiệt, họ sẽ quên mất mình từng được hưởng điều gì; huống chi lớp người đã từng kinh qua nền dân chủ ở Miến Điện vào thời điểm năm 1988 đã già và những người hăng hái đấu tranh nhất trong cuộc nổi dậy 8888 lại là những người trẻ. Và một câu hỏi quan trọng được đặt ra ở đây là: người miền Nam Việt Nam không có kinh nghiệm với dân chủ sao?

Hay vì dân Miến Điện quá đói khổ và thiếu thốn mọi phương tiện khiến họ phải đấu tranh, còn ở Việt Nam dù sao vẫn còn có thể chịu đựng được? Chúng ta hãy nhớ lại, năm 1962 khi Ne Win thiết lập chế độ độc tài, thì đến năm 1974, tức là 12 năm sau, đã có những cuộc biểu tình phản kháng chế độ. Còn ở miền Bắc Việt Nam, từ năm 1954 trải qua cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu cùng thời kỳ tem phiếu bao cấp đói khổ cùng cực, cho đến năm 1986 là hơn ba mươi năm, thành thị và làng quê tan hoang nhưng không có cuộc phản kháng nào xảy ra cả. Ở miền Nam, từ năm 1975 đến 1986 trải qua thời kỳ bao cấp quằn quại cũng gần 12 năm nhưng mọi thứ vẫn im ắng. Bởi vậy, sự nghèo đói không thể là động lực giúp dân chúng vượt qua sợ hãi để đứng lên, nếu không muốn nói là nó có thể làm kiệt quệ tinh thần phản kháng.

Vậy thì tại sao Miến Điện có một phong trào phản kháng mạnh mẽ như thế, còn chúng ta thì không? Có lẽ nếu muốn đơn giản hóa vấn đề, ta chỉ cần quy kết cho vận mệnh mỗi dân tộc. Nhưng dù sao trước tiên chúng ta hãy tự cho mình cơ hội suy nghĩ một chút về vấn đề này.
Người Miến Điện giữ được nội lực, Người Việt Nam thì đã mất nội lực

Từ trước khi bà Aung San Suu Kyi về nước năm 1988, những cuộc biểu tình lớn đã nổ ra; nhưng không thể phủ nhận sự tham gia và lãnh đạo của bà đối với Liên Đoàn quốc gia vì Dân chủ đã làm phong trào đấu tranh dân chủ Miến Miến có thêm sức mạnh và sự gắn kết. Nhận định và đánh giá cao vai trò của bà-con gái một vị anh hùng dân tộc trong việc kết nối mọi thành phần đấu tranh, các trưởng lão dày dạn kinh nghiệm đã mời bà tham gia và trở thành người lãnh đạo Liên đoàn cũng như phong trào đối lập, dù trước đó bà chưa có kinh nghiệm chính trị nào. Tôi thật sự khâm phục những con người khả kính này, những con người đã đặt quyền lợi dân tộc lên trên cái tôi hão huyền để có được một người lãnh đạo có uy tín, một biểu tượng của phong trào-điều mà những người đối lập ở Việt Nam chưa có được. Bởi, như một người bạn mà tôi quý trọng đã nói rằng: “những người hoạt động ở Việt Nam có một tâm lý rất lạ: một mặt họ chống lại lãnh đạo (hiểu theo nghĩa lãnh tụ), mặt khác họ hành xử đầy tính lãnh tụ”. Vậy là ngay từ bước đầu tiên này chúng ta đã không thể sánh với người Miến Điện; còn chuyện thế nào là lãnh đạo, thế nào là lãnh tụ và vai trò của người lãnh đạo, tôi xin được nói trong một bài khác.

Có một người lãnh đạo nhiều uy tín là một điều quan trọng, nhưng sẽ là vô ích nếu người dân không hưởng ứng. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây, khi nói về sự lớn mạnh của phong trào phản kháng ở Miến Điện chính là cái NỘI LỰC của họ. Dù sợ hãi chế độ độc tài, người Miến Điện đã có được một thứ NỘI LỰC mà người Việt Nam không có. NỘI LỰC ấy nằm ở sức mạnh văn hóa.

Mặc dù dưới những năm cầm quyền của mình, Ne Win muốn học tập Trung Quốc, định hướng cho Miến Điện theo con đường XHCN. Nhưng nhìn chung Miến Điện không bị áp đặt một chủ thuyết nào lên toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế. Chế độ cầm quyền ở đó là quân phiệt chứ không phải cộng sản như Việt Nam. Một chính thể độc tài không mang theo mình một chủ thuyết độc hại như chủ nghĩa cộng sản thì bản chất nó cũng gần giống với một nền quân chủ chuyên chế; nó có thể làm cho xã hội trì trệ và lạc hậu, nhân cách xuống cấp ở một mức độ nào đó nhưng ít ra nó không phá hủy triệt để những giá trị văn hóa truyền thống của xã hội, để thay vào đó là một loại văn hóa, loại mô hình xã hội bệnh hoạn, duy ý chí như trường hợp Việt Nam, Trung Quốc.

Ở Miến Điện, văn hóa, đạo đức và tôn giáo vẫn giữ được giá trị nội tại, đời sống văn hóa tinh thần của người dân vẫn nhân văn và thuần phác. Một nền luân lý Phật giáo đúng nghĩa đứng ở vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của họ. Như những nhà báo quốc tế ghi nhận thì, người dân Miến tuy sống nghèo khổ nhưng rất hiền lành, đa số họ thiền định mỗi ngày. Nghèo khổ và lạc hậu ở họ không đồng nghĩa với sự hèn nhát và sự xuống dốc về văn hóa và đạo đức. Chính vì giữ được sức mạnh tinh thần ấy, chính vì đứng trên cái trụ văn hóa nhân bản, trong đói khổ, đàn áp và sợ hãi, người dân Miến không ngừng phản kháng, đòi tự do, dân chủ.

Trái lại, dưới chế độ cộng sản Việt Nam, văn hóa, đạo đức và các truyền thống tôn giáo tốt đẹp đã gần như bị hủy hoại tận gốc rễ. Một xã hội hiện đại nửa mùa, một nền văn hóa mới theo kiểu Tây phương chưa xây dựng được (mà chỉ bắt chước người ta những thói xấu), còn cội nguồn văn hóa truyền thống thì đã biến thái thành những thứ quái dị. Những nhân đức hiền lành, chất phác, lòng yêu nước thiết tha biến thành những mánh mung, lừa đảo, vị kỷ. Một tôn giáo truyền thống từng góp phần to lớn xây dựng nên khí chất Việt Nam, bây giờ đã trở thành một thứ mê tín dị đoan. Đã mấy mươi năm sống dưới một chế độ độc tài hủy diệt văn hóa, bóp méo ý chí lành mạnh và làm thui chột năng lực tinh thần thì lúc đói khổ chúng ta chỉ lo miếng cơm, lúc sung túc chúng ta chỉ lo hưởng thụ. Mất cái gốc tinh thần (văn hóa, luân lý) chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về ý chí và nhân cách. Cái gốc của mọi hành động là tinh thần, ý chí yếu đuối, tinh thần bạc nhược, thì chẳng thể làm những việc lớn lao (nếu không có những điều kiện đột biến làm đòn bẩy).

Vì thế, giáo dục dân trí thông qua những luận bàn nghiêm túc về văn hóa (kể cả văn hóa chính trị), đạo đức, xã hội, chính trị… sẽ là cực kỳ cần thiết để vực dậy cái nội lực đã hư hao ấy; để chính sự phục hồi này, nếu không tạo được một biến cố cho sự đổi thay thì nó cũng giúp cho một thể chế tiến bộ trong tương lai dễ vận hành hơn. Và như John Stuart Mill đã nói: “Một dân chúng có thể còn chưa sẵn sàng cho một thiết chế tốt đẹp, nhưng việc nhen nhóm lên lòng mong ước có được thiết chế ấy phải là phần việc cần thiết cho sự chuẩn bị”. Văn hóa suy đồi, tinh thần khiếp nhược chính là những thứ chúng ta phải chung tay từng giờ để tháo gỡ, hầu mang lại một nội lực mới cho dân tộc. Có nội lực ấy rồi, không những chúng ta có thể dễ dàng xóa bỏ chế độ độc tài, mà còn có thể tiến vào chế độ dân chủ tự do không chút trở ngại.

Sài Gòn, ngày 25 tháng 5 năm 2012

Posted in Người Việt - Nước Việt, Tác giả trong nước | Tagged: , | 1 Comment »

Những Chuyện Trong Ngày: Thứ sáu, 1-6-2012

Posted by Webmaster on June 1, 2012

Xin bấm vào tựa bài để đọc trọn bài từ nguồn trích dẫn.

VOA Tiếng Việt  –  Đan Mạch hủy bỏ các dự án tài trợ cho Việt Nam vì có gian lận

Bộ trưởng Bộ Phát triển Đan Mạch Christian Friis BachĐan Mạch hủy bỏ các khoản viện trợ để giúp Việt Nam ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, và nói rằng các ngân khoản này đã bị sử dụng sai trái.

Bản tin của The Copenhagen Post hôm nay loan tin là Bộ trưởng Phát triển Đan Mạch, Christian Friis Bach, đã đưa ra quyết định đó sau khi tin tức tường trình về nhiều hành động gian lận.

Bộ trưởng Friis đã cắt nguồn tài trợ cho tất cả 3 dự án giúp Việt Nam, sau khi một cuộc điều tra độc lập của công ty Price Waterhouse Coopers phát hiện ra vô số “những điểm bất thường.”

Viết trên trang web của Bộ Phát triển Đan Mạch, Bộ trưởng Friis nói rằng: “Điều quan trọng là phải hành động chống những kẻ đã sử dụng sai mục đích các quỹ viện trợ của Đan Mạch để chứng tỏ rõ rệt về hệ quả của các hành động đó. Những kẻ đã có hành động gian lận phải bị ngăn chận và trừng phạt.”

Ψ

BBC Tiếng Việt  –  ‘VN cần nghiêm túc về nhân quyền’

Ông McCain nói quan hệ Việt Mỹ có thể gần gũi hơn nếu Hà Nội cải thiện nhân quyềnCập nhật: 14:17 GMT – thứ năm, 31 tháng 5, 2012

Thượng Nghị sỹ John McCain của Hoa Kỳ lên tiếng thúc giục Việt Nam ‘nghiêm túc hơn nữa’ trong vấn đề nhân quyền để có thể kết thân thêm với Hoa Kỳ.

Trả lời câu hỏi của BBC trong buổi họp báo hôm 31/5 tại Malaysia, nơi ông McCain đang ở thăm trước khi sang Singapore dự Hội nghị Thượng Đỉnh An ninh Châu Á, vị Thượng Nghị sỹ trước hết nói về bước tiến trong quan hệ Việt – Mỹ:

“Thông điệp của tôi cho Việt Nam là chúng ta đã đạt những tiến bộ lớn.

“Chúng tôi tự hào đã hàn gắn những vết thương của cuộc chiến ghê gớm nhất trong lịch sử Hoa Kỳ chỉ trừ cuộc nội chiến của chúng tôi.

“Quan hệ của chúng tôi với Việt Nam là tuyệt vời. Có nhiều đầu tư của Hoa Kỳ ở đó.”

Nhưng ông McCain không giấu sự không hài lòng của Hoa Kỳ về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam.

“Hiện vẫn có sự thật, mà tôi đã nói thẳng với các người bạn Việt Nam, là vẫn có sự đàn áp những người thiểu số, các tín đồ Phật giáo, Thiên Chúa giáo, những người thiểu số sống tại các vùng cao và chúng tôi mong đợi có tiến bộ về nhân quyền.

“Chúng tôi mong đợi tiến bộ chứ không phải là thay đổi tức thì.”

Ông McCain là tù nhân có tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam sau khi máy bay của ông bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội.

Kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ hồi năm 1994, ông McCain đã nhiều lần tới thăm Việt Nam và là người có quan điểm ôn hòa hơn so với nhiều dân biểu Hoa Kỳ khác trong vấn đề nhân quyền.

Cũng trong họp báo tại Malaysia, ông McCain nói:

“Thực tế là chúng tôi tin rằng quan hệ của chúng tôi là gần gũi và có thể gần gũi hơn.

“Nhưng những vấn đề đó [quyền con người] phải được chính quyền Việt Nam xem xét nghiêm túc hơn và chúng tôi hy vọng họ sẽ làm điều đó.”

‘Chuyển trọng tâm

BBC cũng hỏi ông McCain về sự ‘trở lại Châu Á’ của Hoa Kỳ và ông nói đây không phải là sự thay đổi bước ngoặt mà là chuyện Hoa Kỳ “tái khẳng định cam kết” với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ trên Khu trục hạm USS John S. McCain← Các tàu chiến của Hoa Kỳ trong đó có cả tàu mang tên ông McCain đã tăng cường tới Châu Á trong vài năm qua

Ông McCain nhắc lại rằng Hoa Kỳ đã hiện diện ở khắp Châu Á – Thái Bình Dương trong hơn 100 năm qua và nói thêm:

“Một trong những lý do thuyết phục [cho việc tái khẳng định cam kết với Châu Á – Thái Bình Dương] là kinh tế thế giới đã chuyển trọng tâm sang Châu Á – Thái Bình Dương và chỉ lý do này không thôi đã buộc chúng tôi phải có thêm hoạt động ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.”

Ông McCain cũng nói chuyện cam kết nhiều hơn với Châu Á không có nghĩa là Hoa Kỳ bỏ rơi những người bạn Châu Âu như một số người nghĩ.

Thượng Nghị sĩ Joseph Lieberman, người cùng tham dự họp báo với ông McCain, bổ sung thêm rằng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chú tâm tới những khu vực quan trọng khác trên thế giới trong đó có Trung Đông.

Posted in Những Chuyện Trong Ngày | Tagged: | Leave a Comment »