Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England

Dân Tộc Việt Nam Tự Do – Quê Hương Việt Nam Trường Tồn

Archive for the ‘Người Việt – Nước Việt’ Category

Giấc Mơ Đi Biển

Posted by Webmaster on February 3, 2015

Nguyễn Hùng Sơn

Chiến hạm đang đặt trong tình trạng chuẩn bị công tác. Tàu đã về neo tại Vũng Tàu được 2 ngày rồi. Cũng như thường lệ, sau hơn 3 tháng tuần dương dài đăng đẳng

Tuâ

Tranh vẽ HQ.2 của Họa sĩ Nguyễn Hùng Sơn

Chiến hạm đang đặt trong tình trạng chuẩn bị công tác. Tàu đã về neo tại Vũng Tàu được 2 ngày rồi. Cũng như thường lệ, sau hơn 3 tháng tuần dương dài đăng đẳng, tàu về nhận tiếp tế trong vài ngày, rồi tiếp tục lên đường… Chúng tôi đứng trên đài chỉ huy, dői mắt vào chiếc duyên tốc đỉnh PCF của Hải Đội III Duyên Phòng, đang loay hoay cặp vào chiến hạm. Trời tháng 10, biển có nhiều sóng, chiến hạm phải thả thêm 2 trái độn lớn để chiếc PCF được an toàn hơn. Từ con tàu nhỏ chòng chành, nghiêng ngả, các SQ, HSQ và nhân viên thuộc chi đội đi bờ, măn phép, lần lượt trở về chiến hạm. Trong nhóm những người ấy, tôi thấy có 2 tân thiếu úy. Họ trong tư thế thật nghiêm trang, đặt túi quân trang xuống sàn tàu, đứng nghiêm, thẳng người, quay mặt về hướng quốc kỳ phía sau lái, rôì đưa tay chào thật hùng dũng, đúng quân cách. Nhìn nét mặt rạng rỡ đầy hãnh diện của họ, giấc mơ của một thời tuổi trẻ, bất chợt bùng lên trong tôi.

Giấc mơ của tôi thật đơn giản, “được đi biển”! Hình ảnh của con tàu và biển cả luôn là ước vọng trong suốt khoảng đời mới lớn của tôi. Ngày ấy tôi mê say đóng những con tàu nhỏ xíu bằng cây, rồi xếp đám lính đồ chơi bằng nylon lên boong tàu. Chúng tôi chia 2 phe, mỗi phe một chiếc tàu và dùng dây thun bắn vào đám lính đồ chơi của nhau. Đám lính của phe nào ngă hết trước thì phe ấy thua. Cuộc chơi chỉ có chừng đó, nhưng chúng tôi chơi mãi không biết chán… Giấc mơ cứ thế lớn dần.

Xong Tú Tài II, tôi vội vã thi vào trường Hàng Hải Phú Thọ nhưng bị loại. Mức độ chiến tranh càng lúc càng tăng. Lệnh tổng động vięn lại được ban hành. Tôi không còn một chút hy vọng nào để bước chân vào trường Hàng Hải, đành phải nương náu hoãn dịch ở một đại học không thi tuyển. Mặc dù vậy, giấc mơ con tàu và biển cả vẫn còn đó trong tôi.

Các chuyến xe GMC âm thầm rời trường Bộ Binh Thủ Đức, đưa chúng tôi về lại BTL/HQ trước khi khóa 1/70 SQTB ra trường. Không có lễ măn khoá, không trống kèn, không đại lễ diễn hành, không cung kiếm. Cũng chẳng có một nghi thức gắn lon, trao bằng tốt nghiệp nào cả. Cởi ra bộ quân phục SVSQ Bộ Binh mà chúng tôi đã mặc trong suốt 9 tháng thụ huấn. Khoác vào bộ quân phục Hải Quân với cặp lon chuẩn úy mới tinh, tự gắn. Lòng tôi nghe nhen nhuốm cay đắng. Một cảm giác khó chịu dấy lên trong lòng. Nỗi bùi ngùi về thân phận, về cái xuất thân kỳ quái của mình… Tình nguyện vào khóa 20 SQHQ/Nha Trang, bị tái khám về sức khỏe, rồi được xếp vào tài nguyên của khoá 21. Nhưng rốt cuộc Hải Quân lại đưa chúng tôi đi thụ huấn K1/70 SQTB tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Trong hoàn cảnh phải chấp nhận và không được giải thích này, tôi đă mang một mặc cảm bị bỏ rơi! (Mãi đến sau này, tôi tự tìm hiểu và được biết, vì nhu cầu khẩn cấp gia tăng quân số, HQ không đủ cơ sở huấn luyện, phải gởi một số tân binh và SVSQ đi thụ huấn tại các quân trường hoặc TTHL khác, để đáp ứng với hoàn cảnh Việt Nam Hoá chiến tranh).

Đơn vị đầu tiên của tôi là Giang Đoàn 57 Tuần Thám, đồn trú tại Nhà Bè. Đây là một căn cứ quân sự của Hải Quân Hoa Kỳ, nằm trong lãnh thổ Đặc Khu Rừng Sát, thuộc tỉnh Gia Định, vùng III chiến thuật. Cấp bậc của tôi, bây giờ được kèm thêm hai chữ “Chiến Binh”. Tôi không thích danh xưng “Chiến Binh” ấy và tự hỏi, tại sao lại gọi là chiến binh? Để phân biệt chăng? Nhưng phân biệt để làm gì?! Khi tất cả đều cùng chung một lý tưởng phục vụ?! Cũng may, nỗi buồn rồi qua mau khi tôi gặp lại hai người bạn cùng khoá 1/70 đến trình diện trước đó một ngày. Không kể CHT và CHP, sĩ quan của đơn vị gồm mười hai người. Trong đó, có đến chín người là”Chiến Binh”, cấp bậc từ chuẩn úy đến thiếu úy. Xuất thân các khóa 3/69, 6/69, 1/70 TĐ. Ngoài ra, còn có hai chuẩn úy Đoàn Viên và một chuẩn úy OCS. Chúng tôi không gặp nhau thường xuyên vì được phân tán theo các toán công tác khác nhau. Hoạt động tuần tiểu, hành quân trong các trục và khu vực cũng khác nhau.

Lúc ấy, đơn vị còn đang trong giai đoạn cuối của chương trình huấn luyện tại chỗ (OJT). Chúng tôi thực tập qua những chuyến công tác trên chiến đỉnh Mỹ. tất cả đều xa lạ. Mặc dù vậy chúng tôi cũng đă cố gắng để sớm hội nhập vào môi trường sống mới, quen dần các sinh hoạt, cũng như rất ngưỡng mộ tinh thần kỷ luật, thái độ lịch sự, tôn trọng cấp bực của mỗi một quân nhân Hoa Kỳ mà tôi gặp gỡ.

Địa danh Nhà Bè, không xa lạ gì đối với người dân thành phố. Nhà Bè, một quận lỵ nhỏ gắn liền với Rừng Sát. Vùng nước lợ, đất thấp ngập nước, sình lầy, sông rạch chằng chịt, rậm rạp dây leo và cây thấp. Nhiều muỗi, rắn rết và cá sấu. Trong quá khứ Rừng Sát đã được biết đến qua các cuộc hành quân tiểu trừ loạn quân Bình Xuyên, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Rừng Sát. trải rộng 405 dặm vuông. Từ ranh giới Cát Lái, dọc quốc lộ 15 đi Vũng Tàu, suốt chiều dài sông Thị Vải, vòng qua vịnh Gành Rái, Cần Giờ, Long Thạnh, cửa sông Đồng Tranh, rồi bọc vòng lại Nhà Bè với sông Soài Rạp. Đôi khi địa bàn hành quân mở rộng đến vùng cửa sông Vàm Cỏ, lãnh thổ của tỉnh Long An và Vàm Láng thuộc tỉnh Gò Công. Các đơn vị đồn trú và tham chiến Việt Mỹ, gồm đủ cả Hải Lục Không Quân. Nhưng nỗ lực chánh vẫn là các lực lượng trấn giữ của Đặc Khu Rừng Sát. Riêng về HQVN, ngoài giang đoàn 57 TT, còn có 27 Xung Phong, 93 Trục Lôi và đôi khi có thêm một hay hai phân đội của giang đoàn 52 TT từ Cát Lái đến tăng cường. Đặc biệt hơn là các đơn vị Tình Báo, Biệt Kích, Thám Sát, Người Nhái, vẫn thường xuyên, âm thầm hoạt động.

Những trận đánh rất thường xảy ra, nhưng không ở mức độ lớn. Đại quân của CS nếu có thể, chỉ ở phía bên kia núi Thị Vải, Bà Rịa. Địa thế Rừng Sát, cây thấp, nước ngập, sông rạch chằng chịt không phải là nơi tập trung quân tốt. Nhưng lại là một vị trí chiến lược quan trọng. Địa thế rất thuận lợi cho lối đánh du kích, giao liên, nơi ẩn náu của các toán đặc công phá hoại CS, nhằm xâm nhập, khủng bố quấy rối Saigon. Đây cũng là vị trí yết hầu mà CS luôn ước muốn bóp nghẽn, cắt đứt thủy lộ huyết mạch Lòng Tào để ngăn chận nguồn tiếp vận vào thủ đô.

HQ Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng giang đoàn là một người uy quyền, ông nói tiếng Anh khá thạo nên tạo được sự kính nể của ban cố vấn Hoa Kỳ, nhờ vậy vấn đề tiếp liệu, sửa chữa các chiến đỉnh được đầy đủ, chu đáo. Ở một cấp bậc thấp, tôi thật ngưỡng mộ kiến thức kỹ thuật, tài tháo vát điều hành của ông. Nhưng lối đối xử đôi khi thiếu tôn trọng nhân phẩm đối với thuộc cấp của ông, đã làm cho tôi rất khó chịu. Có lần tôi bạo dạn, yêu cầu ông đừng nói ĐM và mày tao với tôi vì Hải Quy không quy định như vậy. Thú thật khi yêu cầu như thế thì tôi rất lo lắng và chờ đợi một phản ứng trừng phạt của ông. Nhưng ông đã lắng nghe và sau gần một năm phục vụ, ông đă đưa tôi từ vị trí một SQ trưởng toán tuần tiểu lên trưởng khối giang đỉnh và rồi SQ hành quân.

Trong bối cảnh chiến tranh càng lúc càng gia tăng, phải đương đầu với vất vả, nguy hiểm hằng ngày. Sự căng thẳng sống chết đă biến những người lính trở nên lì lợm, bướng bỉnh. Họ là những chiến sĩ can trường, nhưng cũng là những con ngựa bất kham! Họ cũng như chúng tôi, mang một thân phận “bất phùng thời”. Có những người là thủy thủ tập sự hay cải tuyển đã hai, ba năm mà chưa được đi học chuyên nghiệp. Có những người đă tử trận mà vẫn chưa thành thủy thủ. Còn lại một số đã từng mặc hai ba sắc áo lính trong chiến trận. Những ngày đầu ra đơn vị đầy thử thách. SQ trưởng toán không có lính cơ hữu. chỉ mang trách nhiệm điều động 2 giang đỉnh trong một chuyến công tác mà thôi. Người có quyền hạn trực tiếp đối với các thủy thủ trên chiến đỉnh là HSQ thuyền trưởng. Đó là vấn đề rất tế nhị trong lănh vực chỉ huy. Các thuyền trưởng nhận lệnh từ SQ trưởng toán. Nhưng thủy thủ đoàn lại phục tùng thuyền trưởng hơn là SQ trưởng toán. Nếu không khéo, SQ trưởng toán có thể bị cô lập và ngược lại, nếu vì sợ bị cô lập, không dám chứng tỏ quyền hạn chỉ huy của mình để hoàn tất công tác, thì vị SQ trưởng toán ấy phải nhận trách nhiệm đối với CHT. Khi nhìn những vết xâm, vết thẹo chằn chịt trên ngực hay trên cánh tay của hầu hết các thủy thủ và một vài thuyền trưởng, tôi thật có nhiều ái ngại! Một gã học sinh, ngơ ngẩn vào lính. Cái lon chuẩn úy trên vai quả thật nhẹ bổng, non choẹt đối với những người lính dày dạn chiến trận. Điều tôi lo lắng không hẳn chỉ với quân thù mà chính là làm sao để điều động được những người lính này. Làm sao để khiến họ phục tùng khi giáp trận. Khó khăn rồi cũng qua đi. Khi những chiếc huy chương nhỏ được cài lên ngực áo, thì cũng chính là lúc mà tôi thông cảm và ngưỡng mộ sự hy sinh vô cùng lớn lao, xứng đáng của những người lính xâm mình lì lợm ấy.

Chiếc huy hiệu tam giác nền xanh lá cây ở giữa nổi bật hình chiếc giang tốc đỉnh PBR đang cắt sóng với hàng chữ Giang Đoàn 57 Tuần Thám. Đă bắt đầu cho tôi niềm hănh diện khi đeo nó trên ngực áo. Hai chữ “Chiến Binh” vẫn còn đó, nhưng dường như không ai màng đến. Trước các cuộc hành quân và tuần tiểu liên miên, trước cảnh sống chết mỗi ngày, chúng tôi chỉ còn rất ít thời gian để gặp gỡ. Và tình chiến hữu bỗng dưng trở nên gắn bó, sâu đậm như anh em. Cụm từ “huynh đệ chi binh” đă không còn là những khẩu hiệu, những nhắc nhớ trong âm nhạc mà chính là tinh thần sống của chúng tôi. Một giang đoàn tác chiến!

Cuối năm 1971, bất ngờ tôi được thuyên chuyển về BTL/HQ/KQH làm Trưởng Tiểu Ban Huấn Luyện Liên Quân thuộc Phòng Điều Huấn. Công việc của tôi là liên hệ, điều hành thủ tục các khóa huấn luyện bên ngoài HQ. Đặc biệt là lo thủ tục cho các SQHQ dự thi tuyển và vào học tại các trường Kỹ Sư Phú Thọ. Công việc tham mưu văn phòng, nhàn hạ, an toàn, có thể là một hấp dẫn của nhiều người. Nhưng với tôi, ngày càng thêm căng thẳng, bởi có quá nhiều đụng chạm. Tất cả những bước cứu xét tuyển chọn khóa sinh, đều phải dựa trên những điều kiện qui định bởi các văn thư của BTTM hay BTL/HQ. Thế nhưng sau khi báo cáo danh sách tuyển chọn, tôi thường xuyên phải đương đầu với những cú gọi đầy áp lực của một số SQ cao cấp trong hoặc ngoài BTL/HQ, gởi gấm, nhờ giúp đỡ cho thân nhân, đàn em của họ, những người không đủ điều kiện, nằm trong danh sách bị loại. Có khi đó là những lời “Toi, Moi” lịch sự nhả nhặn, có khi là hằn giọng hăm he. Tôi thất vọng, chán nản, xin trở lại giang đoàn tác chiến hay ra khỏi quân chủng. Đại Tá TMP/QH là một cấp chỉ huy mà tôi hằng kính trọng. Ông là người trí thức, bao dung nhân hậu. Trong tâm tình của người anh, ông an ủi và khuyên nhủ tôi nhẫn nại, chịu đựng, trở lại làm việc…

Bạn bè cho tôi là người hay lý tưởng hóa vấn đề, thiếu thực tế ! Điều đó đúng, tôi biết rő. Nhưng tôi không thể thoát ra được quan niệm công bằng trong tương quan cuộc sống. Phải chăng công bằng chỉ là một ước vọng?! Vừa định làm đơn xin trở lại giang đoàn tác chiến một lần nữa, thì được biết có khóa 1ĐB/SQHQ/NT dành cho các SQ Chiến Binh, tôi mừng quá ghi danh ngay

Tuần Dương Hạm HQ.2 Trần Quang Khải

HHTQK

Mãn khóa, tôi về tuần dương hạm HQ2 cùng với 3 người bạn. Đây là một chọn lựa mà chúng tôi đă hănh diện trước tràng pháo tay của các bạn đồng khóa.

HQ2 đă biến giấc mơ “Đi Biển” của tôi thŕnh sự thật. Tôi thích ứng ngay đời sống trên chiến hạm… Cho dů sóng to gió lớn, lạnh buốt sương mù hay những ngày êm ả nắng ấm… Biển cả luôn là một hấp lực, cuốn chặt tôi vào những say mê riêng tư. Tôi tha thiết với những ngày tháng trùng khơi sóng gió ấy, học hỏi rất nhiều trên đủ mọi lãnh vực. Từ chuyên môn đến chỉ huy. Tôi trân quý các kiến thức “Đi Biển” lượm lặt được từ những người đi trước, bạn bè và sách vở. Sóng và gió biển đă làm cho huy hiệu trên mũ và cặp lon trên vai của tôi đen xanh lại. Kinh nghiệm biển cả cũng nhờ đó lớn dần. Tôi dạ dẫm từ một SQ trưởng khẩu đại bác 127 ly, SQ hải pháo, cho đến Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Chiến Báo, rồi Trưởng Khối Hành Quân. Có lẽ vì đi biển là sở thích, nhưng cũng có lẽ từ một mặc cảm sâu thẳm nào đó của quá khứ, tôi luôn luôn buộc mình phải cố gắng. Tôi muốn thử nghiệm khả năng của một gã mang thân phận “Lưu Đày”.

Khác xa với không khí cởi mở, gần gũi “huynh đệ chi binh” như ở giang đoàn tác chiến, đời sống trên chiến hạm thật quy cũ, nguyên tắc và kỷ luật. Truyền thống ấy dựa trên quyền lực của Hạm Trưởng và các sĩ quan chỉ huy. Một kỷ cương có lẽ đã lâu đời trong lịch sử hàng hải Tây Phương, của những thời thuyền buồm. Mang dáng vẻ phong kiến mà ở đó SQHQ là giai cấp chỉ huy hoàng tộc và thủy thủ là giai cấp phục tùng bình dân. Trong khuôn khổ kỷ luật như vậy, quả thật đã trấn áp được nhiều cuộc nổi loạn của thủy thủ trong quá khứ. Đă chứng tỏ được sức mạnh của phục tůng tuyệt đối trong các cuộc hải chiến giữa các hạm đội hay với hải tặc xưa kia. Nhưng xem ra, nguyên tắc lănh đạo như thế quá khô khan, gò bó! Cả 4 gã “Lưu Đày” chúng tôi đều phải cố gắng gò mình trong cái khuôn khổ mới. Tuy vậy, đối với các SQHQ (truyền thống) dường như đó là điều tự nhiên.

“Lưu Đày” không có thói quen ấy, không đặt nặng ranh giới giữa SQ, HSQ và Đoàn Viên. Sự hoà mình trong quan niệm chỉ huy có lúc trở nên một vấn đề bị chỉ trích trên chiến hạm. Có lần tôi bị Hạm Trưởng than phiền rằng: “Anh làm đục nước Hải Quân” khi ông thấy tôi có mặt trong một quán nhậu chung với các thủy thủ. Hạm Trưởng rất đúng trong phương cách tạo sự cách biệt, důng uy quyền để chỉ huy. Nhưng chúng tôi không được huấn luyện như vậy. Trường Bộ Binh dạy chúng tôi lối chỉ huy của một SQ Bộ Binh, biết vận dụng sức lực của con người qua tâm lý “đồng tâm cộng khổ”, “huynh đệ chi binh”, cái nhìn chỉ huy mang tính cách liên đới “tình cảm” trong đó có trách nhiệm của người anh và bổn phận của đàn em. Cái nhìn gắn chặt “đội hình”, nghĩa là toàn đội và đồng bộ. Bởi vì rất dễ hiểu, khung cảnh sống của binh sĩ Bộ Binh không bị cô lập như các thủy thủ trên một con tàu giữa đại dương. Vã lại, “uy quyền” của một trung đội trưởng Bộ Binh tác chiến không đủ để áp lực, buộc các thuộc cấp xung phong thí thân xuyên thủng phòng tuyến địch nếu không có sự liên hệ tình cảm trước khi tuân phục. Muốn vậy, người SQ vừa là cấp chỉ huy nêu gương dũng cảm lại phải vừa là người anh được sự thương mến, gần gũi của đàn em.

Thời gian trước Hiệp Định Paris 1973. Chúng tôi rất bận bịu, hải pháo ngày đêm, tuần tiểu không thấy ngày về bến. Thường thì nhận tiếp tế ngoài biển. Nhưng đôi khi cũng có ghé vào một vài căn cứ vùng duyên hải. Rồi lại đi ngay, chẳng có chi đội nào được đi bờ. Những lúc ấy thật là thiếu vắng cái không khí sinh hoạt của đất liền. Tôi thèm lắm màu xanh lá cây, thèm lắm một chút xe cộ, bụi đất và cũng nhớ lắm hình ảnh xum họp gia đình. Biển cả đâu phải chỉ có những ngày rì rào nắng ấm, con tàu đâu phải chỉ êm đềm rẻ sóng trùng dương. Đã bao lần chiến hạm phải đặt trong tình trạng kín nước, đương đầu với sóng gió băo táp, sương mù. Mũi tàu như cắm vào biển cả và chân vịt như gầm gừ giữa khoảng không. Những cái lắc nghiêng ngả, xô đẩy, răn rắc của vỏ tàu… và những chàng Thủy thủ bơ phờ xiểng niểng, vài chàng mắt mũi lem nhem, tay bám thành tàu, tay xách thùng sô ói mửa… Chiến hạm trân mình xuyên qua từng đợt sóng dữ dội, hất té những con chuột say mèm sóng gió xuống sàn tàu, quay cuồng rồi lăn tòm xuống biển. Tôi mệt mỏi, bơ phờ, nhưng đầy thích thú.

Vào năm 1972. Một phái đoàn “Nghiên Cứu Phân Chim” của Bộ Quốc Phòng (?) gởi tháp tùng chiến hạm ra đảo Hoàng Sa. Trong buổi chiều, trước giờ hoàng hôn, biển bắt đầu động nhẹ, chúng tôi vài người còn nán lại ở sân mũi, chuyện trò. Bất ngờ, một vị Trung Tá Phòng 7 TTM thuộc phái đoàn, bước ra và nhập bọn với chúng tôi. Trong câu chuyện vui vẻ, ông nói : “HQ mấy anh sướng quá! Ăn cơm ngồi bàn, muỗng nỉa. Ngủ giường nệm trắng, tắm nước nóng. Chẳng bù với chúng tôi, muỗi mòng, vắt đỉa, sình lầy, gạo sấy, mưa nắng vất vả”! Đang nói, bất ngờ ông lợm giọng, ói một ngụm xuống biển (cho cá ăn!). Chúng tôi biết ngay là ông đang say sóng, nhưng không ai nói ra, chỉ đề nghị ông vào phňng nghỉ ngơi. Ông không chịu! Cho đến ngụm thứ 3 thì ông từ giả, “Có lẽ tôi bị trúng gió. Thôi chào các anh em nhé!”. Dáng ông nghiêng ngả theo nhịp lắc của con tàu . Chúng tôi nhìn theo cùng cười và thông cảm. Những ngày sau đó, chúng tôi không hề thấy ông, kể cả giờ cơm ở phòng ăn SQ. Thời gian công tác rồi cũng qua, tàu về neo ở cửa Tiên Sa Đà Nẳng. Chúng tôi tiển đưa phái đoàn qua PCF để vào bờ. Vị Trung Tá P7/TTM hôm ấy, đă đến bắt tay tôi, nụ cười thật tươi như sắp thoát khỏi một hoạn nạn. Ông nói, “Tôi nghĩ đi lính Bộ Binh sướng hơn! 
Đời lính thủy đâu có phải chỉ đương đầu với sóng gió. Phía sau giấc mộng hải hồ là cả một thử thách, những khứng chịu của sự cô đơn, của tách rời, của thèm khát mà một người trong đời sống bình thường không thể nào có thể cảm nhận và thông cảm được. Tôi chợt nhớ đă đọc được trên lưng chiếc Jacket của một anh Hạ Sĩ Giám Lộ, “HQ2 cù lao sắt”, hoặc là hàng chữ xâm trên tay của một chàng Thủy Thủ Vận Chuyển, “Xa quê hương nhớ mẹ hiền” . Hay những dòng chữ nguệch ngoạc “Ôi biển cả bây giờ ta mới biết. Mộng hải hồ giết chết cuộc đời ta!” trên một giường bố nào đó, trong phòng ngủ đoàn viên. Tôi hiểu rất rõ sự khứng chịu ấy và hòa nhập hoàn toàn vào những cảm xúc thiếu vắng của họ. Đời thủy thủ là như thế đó. Nhưng bổn phận, trách nhiệm và kỷ luật đã gắn chặt tất cả chúng tôi với biển cả bằng một sức chịu đựng chân thŕnh.
Về Sài Gòn. Quả như cánh cửa thiên đàng mở rộng, lòng chúng tôi hân hoan vô kể. Những bộ tiểu lễ được đem ra mặc và nhiệm sở dàn chào thật nghiêm trang, đầy hãnh diện. Lâu lắm, chúng tôi mới được trở lại thủ đô mến yêu. Tàu có 3 chi đội, nhưng đâu phải được đi bờ 100%. Chúng tôi luân phiên, một chi đội rời tàu đi bờ. còn lại 2 chi đội, ứng trực và trực phải có mặt trên tàu 24/24. Một lần tàu về Sài Gòn. Gặp lúc chi đội của tôi trực, nhưng anh em vẫn vui vẻ, náo nức chờ xuống phiên rồi sẽ đi bờ ngày hôm sau. Bất ngờ được lệnh nhận tiếp tế đạn tại chỗ và ra khơi công tác vào ngày mai. Lúc ấy vào buổi trưa, trời nóng bức. Tôi phải điều động cả 2 chi đội còn lại khoảng 20 người để chuyển 2000 viên đạn đại bác 127 ly từ một chiếc LCU cặp ở vị trí kế bên vào hầm đạn của chiến hạm. Lệnh công tác ban ra, chúng tôi như tiêu tan hết năng lực làm việc. Sau hơn 6 tháng xa gia đình, anh em ai cũng muốn về nhà. Ước mong tàu sẽ nghỉ được vài ngày. Nào ngờ chỉ mới một ngày, lại có lệnh đi!
Vì sự an toàn, đạn 127 ly có 2 phần rời, đầu và thân đạn. 2000 vięn đạn có nghĩa là 4000 lần chuyển đạn chia đều cho 20 người hôm đó. Trong trách nhiệm một SQ trực, tôi hiểu ngay sự khó khăn sẽ phải đương đầu đối với một hoàn cảnh tâm lý không thuận lợi như vậy. Tôi quyết định cởi áo, cůng với anh em ra khiêng đạn. Sau cùng chúng tôi hoàn tất trong hạn định. Tôi mệt lã, mồ hôi như tắm, mặt mày lem luốc, bước vào phòng ăn SQ để uống nước. Hạm Phó đă về chiến hạm từ năy giờ. Ông có mặt trong phòng ăn SQ lúc ấy. Thấy tôi, nét mặt ông bỗng trở nên hầm hầm, ông quát lớn :”ĐM, anh không biết chỉ huy! Không có tác phong. Anh bảo tụi nó làm chứ anh không phải làm! Thằng nào cải lệnh thì đá đít nó. Anh hiểu chưa?” Câu quát tháo ấy làm cơn giận của tôi suýt nổ bùng! Tôi hiểu tôi đă phạm qui định, vào phòng ăn SQ mà không ăn mặc chỉnh tề. Nhưng tôi lại nghĩ, đây là trường hợp bất khả kháng. Tôi cố gắng trình bày,”thưa HP, tôi đã hoàn tất nhiệm vụ được giao phó.”
Theo tôi, một người chỉ huy phải biết ước đoán, tiên liệu. Tůy theo hoàn cảnh, năng lực của thuộc cấp để đạt được mục đích là thi hành và hoàn tất lệnh của thượng cấp. Việc dùng uy quyền, la hét, đá đít thuộc cấp. Không nhất thiết và không phải là một cung cách chỉ huy hữu hiệu. Hai cái máy, nếu mở cùng một tần số thì nó sẽ hát như nhau. Nhưng nếu là 2 con người thì không thể áp dụng một “công thức” đối đăi như nhau được. Hơn thế nữa, buổi sáng sẽ khác buổi trưa. Chuyển đạn rồi được đi bờ sẽ khác với phải ra khơi… Người lính cũng là con người, và tôi cũng thế. Tôi nghĩ nhiều về thân phận của chính tôi, của những bạn bè đồng cảnh ngộ, của nhân viên thuộc cấp, lý tưởng và mục đích của cuộc chiến. Một ý niệm về trách nhiệm phục vụ rộng mở, không còn bị đóng khung hạn hẹp ở màu cờ sắc áo nữa. Trong cái nhìn xa hơn. Tôi tìm thấy được niềm tự hào góp phần phục vụ quê hương dân tộc.
Sân mũi báo cáo, neo đă về lại vị trí. Nhiệm sở kéo neo được giải tán. Chúng tôi vào nhiệm sở hải hành… Chiếm hạm rẻ sóng ra khơi. Qua làn khói đen từ ống khói, thành phố Vũng Tàu mờ dần ở phía sau. Một cảm giác bồi hồi lại dâng lên trong lòng. “Ra khơi”, từ ngữ thật lãng mạn, cái lãng mạn đầy ắp tính chất văn chương thơ phú! Ra khơi với đại dương mênh mông, với hoa biển, mỹ nhân ngư và ngàn sao lấp lánh… Tất cả đă một thời gợi trong tôi thật nhiều mơ tưởng. Giấc chiêm bao của tôi về con tàu và biển cả lớn lắm! Lớn như một ước vọng được tung hoành… Tôi bất chợt cảm thấy buồn cười và thương hại cho chính mình. Thực tế đã đập vỡ tất cả những giấc mơ bay bổng của tôi. Cuộc dấn thân thật sự, không giống như 2 tân thiếu úy vừa đến chiến hạm. Cái xuất thân phức tạp, đă làm mất đi niềm tự hào trong tôi. Bước đầu quân ngũ, đầy nặng nề, choáng váng trước những cú thôi sơn thực tế. Giấc mơ biển cả như tan tành! Tôi đă có ý định ra khỏi Hải Quân. Nhưng rồi cũng chính trong trạng huống đổ vỡ ấy, tôi nhận ra được cái giá trị và ý nghĩa của quan niệm phục vụ. Con người, một cách rất tự nhiên, luôn mong muốn, cố gắng tìm kiếm cho mình một chỗ đứng để được ngưỡng mộ. Muốn thế, thành tích, phong cách và tên tuổi phải được đánh bóng. Để rồi từ đó, xuất thân và truyền thống được đề cao. Thật ra niềm tự hào, tự nó, mang một ý nghĩa tốt đẹp qua việc phục vụ chung. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp nào đó, niềm tự hào rất có thể trở thành nguyên nhân của nhiều mặc cảm. Gây nên sự so sánh, mất đoàn kết.
Đi biển, một giấc mơ. Hải Quân, niềm hănh diện phục vụ. Lưu Đày một thân phận bẽ bàng! Tôi muốn thả lỏng tâm hồn. Tất cả chỉ còn là dấu vết của một đời người. Cho đến bây giờ. Sau hơn 30 năm, cuộc chiến đă chấm dứt. Bao nhiêu bạn bè đã ra đi? Bao nhiêu người là “Chiến Binh”, bao nhiêu người là “HQ Lưu Đày”, bao nhiêu người là “HQ Truyền Thống NhaTrang” , bao nhiêu người là “HQ OCS Hoa Kỳ” hay Úc Đại Lợi ?! Họ đă tự hào, đă xông pha chiến đấu và đă hy sinh. Trong cuộc chiến ấy, đạn quân thù nào có phân biệt được ai?!… Tôi nghĩ về những vị CHT hay HT đầy uy quyền, và thông cảm được sự cô đơn của họ. Những vách ngăn, rào cản do quyền bính, chức vụ tạo thŕnh, chắc hẳn đă làm cho họ nhiều trăn trở. Tôi nghĩ về những SQ, những con người nhiệt huyết, hăng say đă chôn vůi tuổi trẻ của họ cho lý tưởng tự do. Và tôi cũng nghĩ về những người lính, những anh em, bạn bè của tôi. Những người đích thực xả thân! Xả thân và xả thân… Một khối thương yêu chợt ập đến, đè nặng tâm hồn.
Tôi ngồi đây trong hình hài một người đàn ông 60. Trang sử đă lật qua. Tuồng hát đă hạ màn. Tôi rời sân khấu. Nhưng những dư âm dường như còn đâu đó. Như một hoàng hôn hạ kỳ năm nào trên biển cả, tôi thấy tôi, các bạn tôi, cả thủy thủ đoàn và con tàu đang xẩm dần trong màn đêm. Khi đčn hải hành được thắp lên, sau lái chiến hạm, màu trắng xóa của bọt biển chợt lấp lánh một thứ ánh sáng lân tinh. Ánh sáng ấy kéo dài, xa dần, tan dần, đưa tôi vào dòng ký ức. Bắt đầu lại một giấc mơ biển cả, tôi ngồi đóng những con tàu gỗ nhỏ, những sợi thun được bắn thật chính xác vào đám lính đồ chơi của phe bên kia. Giấc mơ tuổi trẻ bay bổng thật xa, không ranh giới và phân biệt.

LĐ. Nguyễn Hùng Sơn Biên Hùng chuyển

 

Posted in Người Việt - Nước Việt, Văn, Z đến A | Tagged: | Leave a Comment »

Đêm nghe tiếng Ráp Nah Sơn

Posted by Webmaster on February 3, 2015

Xin đọc thêm:  Nah… người nghệ sĩ đường phố 


Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) – Tác giả xin bắt chước tên một chuyện dài nổi tiếng trước 1975 của nhà văn Nhã Ca, Đêm Nghe Tiếng Đại Bác, để đặt tựa bài Đêm Nghe Tiếng Ráp Nah Sơn.

Thú thật, ngày xưa người dân Miền Nam sợ tiếng đại bác “giải phóng” bao nhiêu, thì ngày nay Chổi này cũng “nổi da gà” với tiếng nhạc Ráp bấy nhiêu, mặc dầu loại nhạc được gọi là “nhạc của hè phố” này không gây nên cảnh máu đổ thịt rơi khắp nơi, từ nhà ở đến sân trường và gây nên đủ thứ tang thương; nói chung là nhạc Ráp không làm hại gì ai. Lý do “sợ” nhạc Ráp của bỉ nhân rất đơn giản: chỉ vì không hợp “nhĩ vị”, chứ chẳng hề do suy nghĩ ý tứ, dám oánh giá nọ kia một loại nhạc được không ít người hâm mộ.

Nhưng đêm qua nghe Nah Sơn ráp “ĐMCS”, bỗng dưng tôi tự nhiên “dừng chổi lắng nghe” (chữ của Trịnh Công Sơn).
Tôi nghe Nah Sơn ráp, không phải vì ghét, hận CS để khi nghe thiên hạ chửi “ĐMCS” là “khoái cái lỗ tai”; vốn đã “dị ứng” với nhạc Rap, nay lại bị đụng thêm hai tiếng “Đỗ Mười” là thứ “phản cảm” cực kỳ, nên thoạt nghe, tôi đã phải vùng dậy khỏi giường để “tắt đài” ngay (bài Rap “ĐMCS”), nhưng chưa kịp, thì tiếp sau bốn “tiếng thô bỉ” ấy đã lọt vào tai những lời lẽ làm tôi “cảm khái cách gì” (chữ của Hoàng Hải Thủy”), và tất nhiên tôi nghe đi nghe lại mấy lần sau đó.
Tôi không trích ra đây lời bài Ráp “ĐMCS”, vì “Tiên sư Anh Tẹc Nét” chưa gì đã phổ biến đầy dẫy loại tin tức không “chính thống” này, mà ngài “tưởng thú “Ba Ếch mới đây tự thú “không thể ngăn cấm được”, mà ai cũng đã nghe. Tôi chỉ ghi lại cảm tưởng sau khi nghe bài hát.
Khi đó tôi chưa biết Nah Sơn là ai. Dựa theo từ ngữ và câu cú, vần điệu của bài hát, tôi có cảm nghĩ đây là “sản phẩm” không phải của một người, mà của nhiều “tay tổ phản động”; họ không những rành rọt tội ác CS, mà còn thuộc vào hạng “thượng thừa chữ nghĩa”.
Sau khi được biết tác giả của bài nhạc Rap ĐMCS, Nah Sơn, không ai khác hơn là một sinh viên VN mới từ trong nước sang Mỹ du học, tôi càng cảm phục và ngưỡng mộ tài ba, trình độ hiểu biết, lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cho quê hương dân tộc của người tuổi trẻ VN này, nên để ý đến những bài liên quan đế anh. Trong “Thư gửi người Việt Nam”, Nah Sơn có lời xin lỗi công chúng thính giả về “ĐMCS”, như sau:
“Trước tiên, tôi xin lỗi công chúng vì những lời bài hát và nội dung bài hát phàm phu tục tử. Tuy nhiên tôi mong mọi người hiểu rằng đó là cách chúng tôi thu hút sự chú ý của giới trẻ, để rồi sau đó nói lên sự thật cho họ nghe. Tiếng chửi thề cũng là một phần trong đời sống của nhiều người, và rap là một dạng văn học hiện thực. Đừng đánh giá sự việc chỉ qua bề nổi của nó.” (Sic)
Cám ơn Nah Sơn về những lời xin lỗi trên, nhưng theo tôi, có nghe hết bài hát với nội dung bàng bạc… tội ác do CS gây nên được diễn tả bằng từ ngữ chính xác ý nghĩa, khớp đồng điệu âm, “thể nhạc lề đường” mà lời ý trí thức, mới thấy mấy tiếng “chửi tục” ĐMCS chỉ là tiếng thở dài thiếu hơi trước cảnh quê hương dân tộc VN đang phải đứng giữa, đối diện với nghìn trùng ngao ngán do “Bác và Đảng” CS dựng nên sau 85 năm nối giáo cho giặc phá nát gia cang Nước Việt.
Một người mù hai mắt phải chịu cảnh “Đêm dài một đời”(tên một tác phẩm trước 1975 của Nhà văn Lê Tất Điều); Việt Nam 90 triệu người mắt sáng nhưng đang phải lần mò trong đêm tối CS phủ xuống suốt trên tổ quốc Tiên Rồng “minh châu trời đông” đã ngót trăm năm. Biết đến bao giờ được như Nah Sơn có được can đảm để tự thoát ra khỏi bóng đêm ma quái có tên CS.

 tmp-danlambao copy

Posted in Hoàng Sa - Trường Sa - Biển Đông, Người Việt - Nước Việt, Z đến A | Tagged: , | Leave a Comment »

Tiếc nhớ anh Trầm Kha – Nguyễn Văn Đồng

Posted by Webmaster on February 2, 2015

danlambaovn.blogspot.com

TramKhaNguyenVanDong-danlambao

Hải Quân Trung úy Nguyễn Văn Đồng hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974

HT Nguyễn (Danlambao) – Ngày 28 tết, tôi năm ấy 13 tuổi không còn nhỏ, nhưng cũng chưa lớn để hiểu mọi chuyện. Tôi kể lại những gì tôi còn nhớ về ngày ấy, khi anh trai tôi là trung úy hải quân Nguyễn Văn Đồng hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa.
Sáng hôm ấy, như mọi năm, gần tết là việc làm đậu để bán của nhà tôi rất bận rộn. Mẹ tôi đị chợ từ sáng. Tôi dọn bếp xưởng xong, đang tắm thì nghe thấy tiếng bà nội khóc từ ngoài cổng vào. Tôi vẫn ở trần mặc quần đùi chạy ra thì thấy Hiệp, con trai chú Hy dìu bà nội đi vào, đi cùng là một anh lính HQ. Bà nội vừa khóc vừa nói anh Đồng mày chết rồi cháu ơi. Tôi sợ cũng khóc rống lên nhưng thật sự cũng không hiểu vì sao lại có tin đó. Thực ra từ năm 1968, anh Đồng đi Võ Bị Đà Lạt 4 năm, ra trường là vào Hải quân ngay, nên hầu như không ở nhà. Thỉnh thoảng có lần về phép cũng không vào dịp Tết nên ấn tượng trong tôi từ lúc 8, 9 tuổi là anh rất nghiêm. Mỗi lần về phép anh bắt chúng tôi học cả tiếng Anh và rèn chúng tôi lau quét nhà như trong lính. Vậy mà…
Bố tôi lúc ấy chạy ra thì anh lính báo miệng nói rõ anh Đồng hy sinh ngày hôm qua (19/1) ở Hoàng Sa, hiện thi thể đưa về quàn tại Tổng Y viện Duy Tân Đà Nẵng. Bố không khóc, ông cũng là lính mặc dù chỉ là lính văn phòng đã giải ngũ nhưng ông hiểu sự tình. Đúng lúc ấy thì chú Hy đến, chú chỉ là Hạ sĩ quan nhưng làm vận tải nên đã xin một chuyến xe quân đội cấp tốc đi ngay vào Đà Nẵng để nhận thi thể anh tôi. Cùng đi có chị gái tôi là chị Thu Hương.
hq1
Còn lại ở nhà, anh Chu tôi, cùng mấy bác hàng xóm chuẩn bị dọn dẹp sắp xếp để đón anh về. Gần trưa, mẹ tôi hay tin, vứt cả quang gánh bỏ buổi chợ chạy về nhà khóc con.

Tôi cũng xin giải thích vì sao tin báo tử lại về nhà chú tôi ở 3 LTĐ. Nguyên do là nhà tôi ở trong hẻm đường Hàm Nghi nên việc gửi thư rất khó khăn, anh tôi xin địa chỉ nhà chú Hy để tiện liên lạc. Do vậy khi anh hy sinh đơn vị đã cử người về đó báo tin.
Đáng lẽ, như mọi năm nhà tôi cũng đang chuẩn bị đón Tết, vậy mà năm ấy toàn một màu tang tóc. Cành mai trắng (anh Minh cho) cũng được đem ra để ở ngoài sân. Ông Chính, người hàng xóm thuận tay định chặt cây mai vàng trồng chính giữa cửa nhà. Ông bảo trồng như thế xấu và cản trở việc tang lễ nhưng mẹ tôi khóc không cho chặt cây. Cả nhà tôi khóc và cùng ngồi chờ. Hàng xóm cũng ra vào và ngóng chờ.
HQ Trung Úy Nguyễn Văn ĐồngTrưa hôm sau (29 Tết), xe đưa thi thể anh tôi về nhà. Tiếng khóc vang. Những người lính đi hộ tống khiêng quan tài anh tôi vào đặt giữa nhà. Cả nhà tập trung lại, hàng xóm cũng rất đông. Nắp quan tài mở ra, thân xác anh tôi đã được tẩm quấn vải trắng, khuôn mặt chừa lại nhìn như người đang ngủ. Anh vẫn rất đẹp trai như khi còn sống. Sau này, bố tôi kể lại khi vào nhà xác nhận thi thể anh, thấy anh chết nhưng thân thể vẹn toàn, chỉ có một vết thương cỡ một ngón tay ở thái dương nên quyết định cho tẩm liệm nhưng không đóng chặt nắp quan tài để về mở ra cho mọi người nhìn anh lần cuối.
Buổi tẩm liệm bắt đầu, Trung tá Thông, Giang đoàn trưởng Giang đoàn 32 xung phong đóng ở Huế đọc diễn văn truy điệu và thừa ủy nhiệm Tổng thống gắn lon truy thăng Đại úy, truy tặng Bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng và Anh dũng bội tinh nhành dương liễu. Từ lúc đó 2 bên quan tài luôn có 6 người lính trang phục chỉnh tề đứng nghiêm.

Trung úy Phú, người cùng học VBQG Đà Lạt và rồi cùng chiến đấu trên HQ5 với anh Đồng kể lại: Lúc chiến sự nổ ra, anh Đồng là sỹ quan trưởng khẩu pháo lớn nhất và quan trọng nhất của tàu HQ 5 Trần Bình Trọng. Anh chỉ huy trên pháo tháp và bắn cháy tàu Trung Cộng, HQ5 cũng bị bắn trả dữ dội. Khoảng 11 giờ, chiến sự ác liệt, thuộc cấp có vẻ nao núng thì anh Đồng hét to “Không sợ, có chết tao chết trước”, vừa dứt lời thì một phát đạn trúng pháo tháp, anh ngã xuống hy sinh cùng lúc có cả người lính xạ thủ. Có người kêu lên, thằng Đồng chết rồi và vài người khiêng xác anh xuống để vào vị trí quàn thi thể. Cuộc chiến tiếp tục. Chiều tối đó tàu được lệnh quay về Đà Nẵng, nhờ vậy mà thi thể anh được về với đất mẹ không phải thủy táng. Anh Phú mang về trao kỷ vật cho gia đình, một ít tiền, nhiều sách thơ văn của anh, một cái nhẫn Võ Bị K25, một đồng hồ Seiko 5, và một cái ná dây thun, ít quần áo.
Cả đêm hôm đó mọi người có mặt đều không ngủ.
Sáng hôm sau, 30 Tết, lễ động quan và di quan đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Tang lễ diễn ra theo quân cách, 2 hàng lính hải quân, lục quân trang phục chỉnh tề tiễn đưa và khi hạ huyệt có bắn mấy phát súng chỉ thiên. Anh nằm lại ở nghĩa trang xã Thủy Phước, Tỉnh Thừa Thiên Huế bấy giờ.
Cuộc đời anh dừng lại ở tuổi 26, tuy vậy anh cũng để lại nhiều ký ức. Năm 1968 anh là sinh viên Luật, tham gia Thanh niên thiện chí, có sáng tác thơ văn và hoạt động văn nghệ. Khi vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, anh cũng là cây bút sung sức viết nhiều cho Đa hiệu và các tap chí Văn khác với bút hiệu TRẦM KHA. Anh có một tập thơ Đông Phương đã chuẩn bị xong nhưng chưa kịp in, bản thảo đưa về gia đình, chiến sự năm 1975 bản thảo bị thất lạc.
Năm nay, nhân 40 năm ngày anh mất, tôi viết lại những dòng này để tiếc nhớ thương anh.

Posted in Hoàng Sa - Trường Sa - Biển Đông, Tưởng Niệm - Tri Ân | Tagged: , , , | Leave a Comment »

Thuỵ Điển đóng cửa Viện Khổng tử

Posted by Webmaster on February 2, 2015

 

Đàn Chim Việt – |  

LTS Đàn Chim ViệtRất nhiều nước đã đóng cửa viện Khổng Tử vì cho rằng, núp dưới chiêu bài dạy tiếng, Trung Quốc đã lồng ghép vào đó các mục tiêu chính trị và tuyên truyền cho chế độ cộng sản, thậm chí có thể là hoạt động tình báo. Trong khi đó, Việt Nam lại mới  khai trương rầm rộ viện Khổng Tử. Bản tin dưới đây đã xuất hiện trên mạng cách nay hơn 2 tuần, nhưng để giúp chuyển tải thông tin rộng rãi tới dư luận, chúng tôi xin đăng lại.

logokhongtuĐH Stockholm, Thuỵ Điển là trường đại học mới nhất thông báo sẽ đóng cửa Viện Khổng tử – một trong hàng trăm trung tâm được Chính phủ Trung Quốc rót ngân sách để phục vụ việc học tiếng Trung và văn hoá nước này trên toàn thế giới.

Mới đây, ĐH Chicago và ĐH Bang Pennsylvania đã đóng cửa Viện Khổng tử của trường trong bối cảnh ngày càng lo ngại liệu các trường sở hữu Viện này có đang để cho Chính phủ Trung Quốc can thiệp thái quá vào chương trình giảng dạy và đội ngũ giảng viên hay không.

Phó hiệu trưởng ĐH Stockholm – bà Astrid Söderbergh Widding phát biểu với tờ Svenska Dagbladet của Thuỵ Điển rằng việc thành lập các viện được tài trợ bởi một quốc gia khác trong một trường đại học nhìn chung vẫn còn đáng nghi ngại và mơ hồ.

Trong một tuyên bố trên trang web của trường, nhà trường thông báo sẽ đóng cửa Viện Khổng tử vào ngày 30/6. Được biết, Viện này được thành lập tại ĐH Stockholm từ năm 2005.

Khác với các viện khác như Goethe hay Alliance Française, Viện Khổng tử có trụ sở trong chính các trường đại học nước ngoài. Viện này đặc biệt thu hút sự quan tâm của nhiều trường khi nhận được ngân sách từ Chính phủ Trung Quốc.

Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, các Viện Khổng tử đang bị chỉ trích vì tuyên truyền những quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới chiêu bài giảng dạy tiếng Trung. Các giáo viên làm việc cho Viện này bị cấm thảo luận những chủ đề nhạy cảm như Đài Loan, Tây Tạng hay Pháp Luân Công. Họ cũng bị cấm đi theo các tôn giáo không được lòng chính quyền Trung Quốc tại Trung Quốc.

Tờ Epoch Times cho hay, những tranh cãi về việc phân biệt đối xử khi tuyển dụng ở Viện Khổng tử thuộc ĐH McMaster (Ontario, Canada) đã khiến nhà trường quyết định đóng cửa Viện này vào tháng 7 năm 2013.

Cuối năm 2013, Hiệp hội các giảng viên đại học Canada đại diện cho hơn 70.000 học giả Canada đã kêu gọi các trường đại học, cao đẳng cắt đứt quan hệ với các Viện Khổng tử.

Tháng 6 năm 2014, Hiệp hội giảng viên đại học Mỹ đã nối gót theo Canada trong việc kêu gọi các trường đại học không hợp tác với các Viện Khổng tử gây nhiều tranh cãi này.

Tháng 9 năm 2014, ĐH Chicago từ chối gia hạn hợp đồng duy trì Viện Khổng tử và một tuần sau khi trường này công bố quyết định, ĐH Bang Pennsylvania cũng làm theo.

Nguyễn Thảo (Theo Insider Higher Education) – VietNamNet

 

Posted in Người Việt - Nước Việt, Z đến A, Đời sống quanh ta | Tagged: , | Leave a Comment »

Bài thơ của một thi nhân Miền Bắc: Cảm Tạ Miền Nam

Posted by Webmaster on January 28, 2015

Cảm Tạ Miền Nam

Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với Miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.

Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.
Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt

Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh

Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.”
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.

Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành nhân.

Phan Huy
Hanoi

 

Posted in Người Việt - Nước Việt, Tác giả trong nước, Thơ, Z đến A | Leave a Comment »

Tran Van Quang, Canada: Vài cãm nghỉ về Dự Luật S-219 Do TNS Ngô Thanh Hải Đề Xướng

Posted by Webmaster on January 11, 2015

Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England kính đề nghị quý đọc giả ký tên vào kiến nghị gửi các nhà lập pháp Canada để bày tỏ sự ủng hộ đối với dự luật Bill S-219 the Journey to Freedom Day Act.  Quý vị chỉ cần cho biết tên, email và zipcode của mình, không mất hơn hai phút.  Xin bấm vào link dưới đây:

 http://www.jasonkenney.ca/news/petition-the-journey-to-freedom-act-bill-s-219/

“Petition: the Journey to Freedom Day Act (Bill S-219)/ Pétition : Le projet de Loi sur la Journée du Parcours vers la liberté (projet de loi S-219)

December 9, 2014

We, the undersigned, support the Journey to Freedom Day Act (Bill S-219)to commemorate those Vietnamese refugees who fled oppression and received C anada’s protection.

Nous soussignés appuyons le projet de Loi sur la Journée du Parcours vers la liberté (projet de loi S-219) visant à commémorer les réfugiés vietnamiens qui ont fui l’oppression et qui ont reçu la protection du Canada.”

Để tìm hiểu thêm, kính mời quý vị đọc baì cãm nghỉ sau đây của Ông Trần Văn Quang, Abbotsford, BC Canada, quangtran.vl@hotmail.com

From: quangtran.vl@hotmail.com
Subject: Cãm Nghỉ về Dự Luật:S-219
Date: Sun, 4 Jan 2015 21:37:34 -0800

Vài cãm nghỉ về Dự Luật  S-219 Do TNS Ngô Thanh Hải Đề Xướng
Kính thưa qúi Đồng Hương,
Tình cờ, tôi xem được cuộc phỏng vấn của cô Thanh Tâm, phóng viên của đài SBTN Canada với TNS Ngô Thanh Hải đăng tải trên youtub về Dự Luật S-219 “Black April Day Bill”. Thật ra cuộc phỏng vấn nầy tôi đã có cơ hội nghe qua trên đài SBTN nhưng chưa được rõ lắm. Lần nầy, tôi cố nghe đi nghe lại lời phỏng vấn của phóng viên Thanh Tâm cũng như những câu trả lời của TNS Ngô Thanh Hải. Ngoài ra, trên website www.senatorngo.ca  cũng còn lưu lại một số bài phỏng vấn hay nói chuyện của TNS Ngô Thanh Hải chẳng hạn như: Senator Ngo’s address at The UNHCR World Refugee Day Ceremony in Ottawa: Flag Raising Ceremony 2014 Senator Ngo: Toronto Tet Festival 2013…..
Thành thật mà nói, tôi có cơ may được quen biết với ông Ngô Thanh Hải từ hơn hai mươi năm qua, mặc dù không có mối giao tình sâu đậm, nhưng tôi biết ông là một nhà Chánh Trị  có lối ngoại giao khéo léo, cho nên tôi khá mừng khi được biết ông đã trở thành một Thượng Nghị Sĩ Liên Bang của Canada với một vài lý do sau đây: 1/ Ông làm hãnh diện cho Cộng Đồng Việt Nam ở Canada. 2/ Với chức vụ nầy, tôi hy vọng ông có thể làm được một chút gì đó cho Cộng Đồng Việt Nam ở Canada nói riêng hay cho cả người Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại nói chung trong công cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền, cho Tự Do cho Dân Tộc và Đất Nước Việt Nam. Bởi vì như trên tôi đã thưa, ông là một nhà Chánh Trị, ông đã từng hoạt động hay hợp tác với các Đoàn Thể đấu tranh Nhân Quyền, Dân Chủ và Tự Do trong nhiều năm qua, cho nên tôi đặt niềm tin khi ông có được địa vị và chức vụ cao trong Quốc Hội Canada, một đất nước luôn tôn trong Dân Chủ và Nhân Quyền của con người, tiếng nói của ông sẽ được Quốc Hội Canada và kể cả Thủ Tướng lắng nghe, trong đó có cả Bộ Ngoại Giao, Bộ Thương Mại, Kỷ Thuật,Thông Tin, Văn Hóa và nhất là bộ Di Trú vv. Nhờ vậy mà trong thời gian qua, nước Canada đã có nhiều áp lực với chánh quyền cộng sản Việt Nam…nhờ vậy mà trong thời gian qua có nhiều người Việt Nam được bảo lảnh sang Canada trong viện đoàn tụ, nhất là các người Việt Nam còn kẹt lại ở các trại tỵ nạn Á Châu lần lượt được tái cứu xét để được định cư ở Canada. Điển hình nhất là mấy chục đồng bào VN còn kẹt ở Thái Lan hơn hai mươi lăm năm qua vừa sang định cư ở Canada trong những tháng cuối cùng của năm 2014. Đồng ý là nhờ vào sự vận động tận lực của các Hội Đoàn, của Luật Sư Trịnh Hội, của Thượng Toạ Thích Nguyên Thảo vv…nhưng nếu không có tiếng nói quan trọng của TNS Ngô Thanh Hải đối với Bộ Di Trú Canada thì cũng còn nhiều khó khăn(?) Đặc biệt hơn, là một vài nhà đấu tranh Dân Chủ ở trong nước bị áp lực qúa nặng, hoặc bị truy lùng, đe dọa đến tính mạng phải trốn sang các nước lân cận. Những nhà đấu tranh nầy cũng được sự can thiệp của TNS Ngô Thanh Hải với Bộ Di Trú và đã được định cư ở Canada trong đó có nhà đấu tranh Dân Chủ Đặng Chí Hùng. Chưa hết, trong những năm gần đây, sau ngày ông Ngô Thanh Hải trở thành Thương Nghị Sĩ trong Quốc Hội Canada, mặc dù ở xa, nhưng tôi thấy các ngày Lễ Hội, Tết Truyền Thống của Dân Tộc, nhất là ngày Quốc Hận 30 Tháng 04 thì hầu như Cộng Đồng người Việt vùng Montreal, Toronto đã khởi sắc, nếu không muốn nói là đã tổ chức những ngày Lễ Hội hết sức nhộn nhịp, hết sức long trọng, đôi khi có cả ông Thủ Tướng Canada và các viên chức cao cấp trong chánh quyền, trong Quốc Hội đến tham dự, đến chung vui, chia sẻ vv…Thực tế mà nói, nếu không có TNS Ngô Thanh Hải thì chúng ta có được cái vinh dự đó không? Có được các vị cao cấp trong chánh quyền Canada đến và choàng lá Quốc Kỳ VN Cộng Hòa trên vai, trên cổ họ không? Hãy nhìn qua các Quốc Gia khác trên thế giới có cộng đồng VN định cư, kể cà Hoa Kỳ là nước có hàng triệu người VN đang sinh sống, với hàng triệu lá phiếu có thể thay đổi kết qủa cuộc bầu cử quan trọng của chính quyền, nhưng thành thật mà nói cũng chưa bao giờ có ông Tổng Thống nào đến tham dự (nếu có chăng là đại diện) thì đừng nói chi đến còn quấn lá cờ vàng ba sọc đỏ của Cộng đồng người Việt. Tôi xin thành thật ngưỡng mộ ông Ngô Thanh Hải đã làm cho tôi được hưởng lây cái vinh dự nầy dù rằng tôi ở rất xa, bên nầy bờ Thái Bình Dương, chưa bao giờ tôi được vinh hạnh sang tận miền Đông để chung vui cùng các Đồng Hương thân thương của tôi trong các ngày lễ đặc biệt nầy.
Trở lại Đạo Luật S-219 “Black April Day Bill”mà TNS Ngô Thanh Hải đã đệ trình lên Quốc Hội Canada để xin thông qua, để đánh dấu “Bốn Mươi Năm cộng sản cưởng chiếm Miền Nam Việt Nam” Và cũng đánh dấu: “Bốn Mươi Năm Người Việt Nam Bỏ Nước Ra Đi Tìm Tự Do” vì không chấp nhận chủ nghỉa cộng sản. Như trên tôi đã thưa, vô tình tôi đọc được và nghe được một số cuộc phỏng vấn của các phóng viên SBTN Canada trong đó có bài phỏng vấn về Đạo Luật S-219 với TNS Ngô Thanh Hải. Lý do ông đưa ra và đệ trình đạo luật nầy xin được tóm tắt như sau:
1/ Để đánh dấu Bốn Mươi Năm Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản, kể từ ngày 30 tháng 04 năm 1975
2/Để cám ơn Chánh Phủ Canada đã nhận khoản 80 ngàn Đồng Bào Việt Nam Tỵ Nạn cộng sản vào thập niên tám mươi  sang định cư ở Canada.
3/ Để tưởng nhớ đến hơn 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả trên đường đi tiềm Tự Do.
4/ Để cám ơn Chánh Phủ và người dân Canada đã giúp đở cho cộng đồng người Việt Nam định cư ở Canada sau bốn mươi năm, bây giờ con số đó đã lên mấy trăm ngàn và đã có một cuộc sống tốt, và đầy đủ Tự Do.
Ngoài ra TNS Ngô Thanh Hải cũng có giải thích về đệ nhất tham tán csVN Vũ Dũng (?) đã tìm cách ngăn chăn Dự Luật S-219 nầy. Ông nhấn mạnh: Cộng Đồng VN đang sinh sống ở đất nước Canada thì chỉ chịu ảnh hưởng bởi luật pháp Canada. Nhất là phải biết ơn chánh phủ Canada đã cưu mang mấy trăm ngàn đồng hương Việt Nam từ bao nhiêu năm nay.  Bộ luật nầy có thành hình hay không phần lớn cũng tùy thuộc vào sức mạnh của cộng đồng, tinh thần đoàn kết và đấu tranh chống cộng của cộng đồng Việt Nam đang sinh sống tại Canada. Bởi vì chúng ta là những người đã bỏ nước ra đi tìm Tự Do vì không chấp nhận sống chung với chế độ cộng sản,
Thưa qúi Hội Đoàn, Đoàn Thể Chánh Trị, Tôn Giáo và qúi nhân sĩ, quí đồng hương, việc đầu tiên, xin qúi vị hãy vào website:www.senstorngo.ca để nghe lại cuộc phỏng vấn nầy và một số việc làm khác của ông Ngô Thanh Hải sau ngày ông giử chức vụ Thượng Nghị Sĩ trong Quốc Hội Canada. Nếu chúng ta cảm thấy những việc làm của ông là đúng, có lợi cho cộng đồng VN ở Canada trong cộng cuộc đấu tranh Dân Chủ và Nhân Quyền… vậy tại sao chúng ta không ủng hộ? Xin nói rõ, chúng ta ủng hộ là ủng hộ cho Dự Luật S-219 “Black April Day Bill” được thành hình, có nghỉa là thĩnh cầu chánh phủ và Quốc Hội Canada xác nhận ngày 30/04 hàng năm là ngày “Tháng Tư Đen” hoặc là ngày:”Hành Trình Tìm Tự Do” của người Việt Nam trốn chạy cộng sản đi tim Tự Do…chớ không phải ủng hộ cá nhân ông Ngô Thanh Hải, bởi vì ông đâu có cần chúng ta ủng hộ. Đặc biệt chức vụ Thượng Nghị Sĩ ở Canada do ông Thủ Tướng đề cử chớ không do lá phiếu dân bầu. Do vậy, trong mỗi chúng ta, nhất là qúi vị lảnh đạo các Hội Đoàn, các vị Chủ Tịch Cộng Đồng, các Tôn Giáo,vv…hãy khẩn cấp vận động các thành viên của mình ký vào Thĩnh Nguyện Thư mà tôi có thấy trên website http://www.jasonkenney.ca/news/petition-the-journey-to-freedom-act-bill-s-219/ hay trên email của bạn bè, gởi Thủ Tướng và Quốc Hội Canada chấp thuận Dự Luật nầy trước ngày 30/04/2015 để đánh dấu 40 năm mất nước (VNCH), đánh dấu 40 năm Hành Trình Tìm Tự Do của người Việt Nam lưu vong! Đây là một vấn đề quan trọng để thể hiện tinh thần Đoàn Kết và quyết tâm đấu tranh Tự Do cho Dân Tộc Việt Nam. Mong lắm thay!
Kính
Trấn Văn Quang  BC  Canada
Kính thưa các bậc trưởng thượng và qúi nhân sĩ,
Nếu có cùng một quan điểm, xin vui lòng phổ biến dùm cãm nghỉ nầy một cách rộng rãi để cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, nhất là Canada ký tên vào Thĩnh Nguyện Thư để chúng ta cùng đánh dấu ngày 30/04 2015 lần thứ 40 ngày mất nước và cũng là ngày tang thương nhất của toàn quân, toàn dân Việt Nam Cộng Hòa.! Ngày tang chung của Dân Tộc!
Chân thành cãm tạ
TVQ

Posted in Người Việt - Nước Việt, Nhịp sống cộng đồng Boston/New England, Sinh hoạt | Tagged: , , | 1 Comment »

Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2014 tại Liên Hiệp Quốc, New York City

Posted by Webmaster on December 23, 2014

 

Thông Cáo Báo Chí cùa Ban Tổ Chức

Ngày  Vận Động Nhăn Quyền, Tự Do Dân Chủ và Toàn Vẹn Lãnh Thổ Cho Việt Nam

Bấm → 12_14_14_ThongCaoBaoChi

Hình ảnh tham dự của Hội Phụ Nử̃ Cờ Vàng New England

 

lhq 2 lhq pncv 2 lhq pncv 3

lhq pncv 4

 

lhq pncv

 

tds 1

Phái đoàn vào Tòa Đại Sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc ↑

A picture is worth a thousand words:

Thỉnh nguyện thư của Hội Phụ Nử̃ Cờ Vàng New England đệ trình Đại Sứ Hoa Kỳ:

To all JUST and RIGHTEOUS CITIZENS of The World:

Please do not allow China violates International Laws

9-dash-line

 

 

 

 

Posted in HPNCV/NE, Người Việt - Nước Việt, Nhịp sống cộng đồng Boston/New England, Sinh hoạt | Leave a Comment »

“Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô”

Posted by Webmaster on October 12, 2014

Bạch Hóa Hội Nghị Thành Đô

Bạch Hóa Hội Nghị Thành Đô

Lời kêu gọi thực thi Quyền Được Biết của người dân:

“Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô”

Để tiếp tục thực hiện điều “Chúng Tôi Muốn Biết”, một văn bản “Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô” sẽ được trao cho Quốc hội vào ngày:

Thứ Tư, ngày 15 tháng 10 năm 2014, tại:

Ban Dân Nguyện – 22 Hùng Vương, quận Ba Đình, Hà Nội

Văn phòng Quốc hội – 56-58 Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận, Sài Gòn.

Cho đến thời điểm này, tại Hà Nội và Sài Gòn đã lựa chọn ra một số đại diện để trực tiếp đi trao bản yêu cầu cho Ban Dân Nguyện và Văn Phòng Quốc Hội vào ngày 15/10 sắp tới.

Quyền Được Biết là một quyền phổ quát của mọi công dân và Hội nghị Thành Đô có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận mệnh của dân tộc. Do đó, chúng tôi xin kính mời mọi người hưởng ứng tham gia vào việc trao yêu cầu này.

Thời gian tập trung tại 2 địa điểm nêu trên là vào lúc 9 giờ sáng.

Đại diện:

Phạm Thanh Nghiên

Nguyễn Phương Uyên

Nguyễn Xuân Nghĩa

Sau đây là nội dung của bản yêu cầu:

Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô

Vào ngày 4 tháng 9 năm 1990, tại thành phố Thành Đô (Trung Quốc) những người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam và đảng cộng sản Trung Quốc đã ký kết nhiều điều khoản liên quan đến quan hệ giữa hai nước, đặc biệt đến vận mệnh của Tổ quốc Việt Nam. Đến nay, sau gần một phần tư thế kỷ, nhân dân Việt Nam vẫn hoàn toàn không biết nội dung của hội nghị này.

Tuy nhiên, kể từ sau Hội nghị Thành Đô, nhân dân Việt Nam đã chứng kiến:

– Trên đất liền: Việt Nam mất vào tay Trung Quốc hàng trăm ki lô mét vuông lãnh thổ do xương máu tiền nhân để lại và hàng ngàn hecta rừng đầu nguồn chiến lược dưới các dự án cho thuê dài hạn hơn 50 năm. Bất chấp can ngăn của rất nhiều trí thức và nhà quản lý tâm huyết, đảng chỉ đạo chính phủ cố tình thực hiện dự án khai thác bauxite lỗ lã, gây hiểm họa khôn lường đối với môi trường sống Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, hàng ngàn người Tàu vào chiếm ngự vùng chiến lược hiểm yếu Tây Nguyên.

– Ngoài biển Đông: Hàng ngàn ki lô mét vuông vùng biển giàu tài nguyên và huyết mạch giao thương của Việt Nam rơi vào tay Trung Quốc. Ngư dân Việt Nam mưu sinh trên ngư trường truyền thống bị lính Trung Quốc xua đuổi, bắt bớ, đánh đập, giam cầm, sát hại, cướp đoạt tàu thuyền, ngư cụ. Các đảo Gạc Ma, Chữ Thập… của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép và đang bị biến thành những căn cứ quân sự nguy hiểm, nhằm mở rộng tham vọng xâm lược của Bắc Kinh đối với biển Đông.

– Về kinh tế: Kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc sâu sắc vào Trung Quốc. Bắc Kinh nắm 90% gói thầu các dự án kinh tế trụ cột, chế ngự kinh tế Việt Nam; hiểm họa đội quân người Trung quốc đi kèm, ăn ở, lập làng, lấy vợ, sinh con đẻ cháu khắp 3 miền ngày càng gia tăng. Máy móc thiết bị lạc hậu, hàng hóa độc hại Trung Quốc tràn ngập Việt Nam.

– Về chính sách đối với chiến sĩ và nhân dân: Để lấy lòng Bắc Kinh, sự kiện Trung Quốc xâm lược Việt Nam vào các năm 1979 và 1988, tàn sát dã man đồng bào và chiến sĩ nước ta bị cấm đề cập trong sách vở, báo chí; mọi hoạt động tưởng niệm đều bị cấm đoán và đàn áp thô bạo; bia liệt sĩ bị chỉ đạo đục bỏ. Mọi cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, phản đối đường lưỡi bò bạo ngược, đều bị đàn áp dã man. Những người dân tập Pháp Luân công ở Việt Nam cũng bị bắt bớ, tra tấn, khủng bố.

– Về ngoại giao: Nhà nước Việt Nam đã tỏ ra e ngại kiện hành vi xâm lược trắng trợn của Bắc Kinh ra các cơ quan tài phán quốc tế, kể cả vụ giàn khoan HD-981. Cờ Trung Quốc thêm sao (5+1 sao) ngang nhiên tràn ngập trong các dịp tiếp tân lãnh đạo Bắc Kinh do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức, và trình chiếu công khai trên đài truyền hình trung ương.

Hội nghị Thành Đô có những nội dung gì? Những ai đã thỏa thuận những gì để gây ra những hậu quả vô cùng tai hại trên, dẫn đến những Hiệp định phân định biên giới trên bộ Việt-Trung, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ bất bình đẳng? Còn những gì khác đã được bí mật thỏa thuận, uy hiếp sự tồn vong của dân tộc mà chúng ta chưa biết?

Nếu không có sự minh bạch thì không chính phủ nào có thể bị quy trách nhiệm. Phải chăng đây là lý do mà nhân dân bị tước đoạt quyền được biết để những người nắm quyền lãnh đạo trốn tránh trách nhiệm trước lịch sử dân tộc?

Những ai đã cam tâm bán rẻ xương máu tiền nhân và chiến sĩ đồng bào cả nước? Những ai đang rắp tâm tiếp tục mặc cả với giặc trên lưng nhân dân? Nhân dân phải được biết!

“Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra…” không thể chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền suông mà phải được thực thi. Do đó, trong vai trò những người dân làm chủ đất nước, chúng tôi yêu cầu các đại biểu Quốc hội, phải bạch hóa ĐẦY ĐỦ VÀ CHÍNH XÁC TOÀN BỘ NỘI DUNG của Hội nghị Thành Đô.

Nếu yêu sách chính đáng này của những người dân yêu nước, muốn bảo vệ quyền tự chủ và độc lập của nước nhà không được đáp ứng, thì điều đó chứng tỏ rằng quả thật Hội nghị Thành Đô đã bán đứng tài nguyên, lãnh thổ, lãnh hải và nền độc lập của Tổ Quốc. Sự im lặng của Quốc hội sẽ là câu trả lời rõ ràng nhất cho toàn thể nhân dân về nội dung tệ hại và nguy hiểm của Hội nghị Thành Đô.
Do đó, chúng tôi tin rằng Quốc hội sẽ trả lời nhanh chóng và nghiêm túc những yêu cầu bạch hóa Hội nghị Thành Đô. Chúng tôi tin rằng trong Quốc hội vẫn còn có những đại biểu chưa quên những hy sinh xương máu của những chiến sĩ đã nằm xuống ở các trận chiến biên giới Việt-Trung, Hoàng Sa, Trường Sa… để hành xử đúng lương tâm người Việt Nam yêu nước.

 

Dân Lám Báo

Posted in Người Việt - Nước Việt | Tagged: , , , | Leave a Comment »

Khi TQ xây xong đường băng, Việt Nam chiến thắng?

Posted by Webmaster on October 12, 2014

RFA Tiêng Việt – Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội  –  2014-10-10

Sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đã được hoàn tất.

Sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đã được hoàn tất.↑

Theo Báo Tuổi Trẻ, ngày 7-10, Tân Hoa xã của Trung Quốc đưa tin nước này đã xây xong đường băng dành cho máy bay quân sự trên đảo Phú Lâm.

Bàn đạp cho “Vạn lý trường thành trên biển”?

Đó là động thái mới nhất nằm trong một chuỗi những hành vi ngang ngược mang tính xâm lược, kéo dài công khai nhiều năm nay nhằm khẳng định cái mà TQ gọi là chủ quyền của mình ở Hoàng Sa của VN.

Với việc ồ ạt xây dựng những đảo đá nhân tạo, những sân bay quân sự,TQ đã đặt được bàn đạp để thôn tính khoảng 90% diện tích biển Đông theo mục tiêu “Đường chín đoạn”, “Vạn lý trường thành trên biển”.

Hoàn thành trước thời hạn “lộ trình của Hội nghị Thành Đô”?

Những người có trách nhiệm ở VN lâu nay không thể không biết hiểm họa và tiến độ của việc TQ xâm phạm lãnh hải lãnh thổ VN qua các phương tiện theo dõi hiện đại và mật độ dày đặc thông tin quốc tế cập nhật về vấn đề này.

Ngay từ 7/5 /2014, Reuters đã công bố lời một quan chức ngành dầu khí TQ tiết lộ rằng quyết định của giới chức Bắc Kinh triển khai giàn khoan 981 là một quyết định chính trị chứ không phải thương mại. Đến lúc rút giàn khoan, Bắc Kinh có thể đã cải tạo xong phần nền trong kế hoạch biến đá thành đảo ở Trường Sa.

Khi Trung Quốc đã xây dựng được sân bay, cầu cảng cỡ lớn ở Trường Sa, mối nguy hiểm chiến lược về mặt quân sự – an ninh đối với Việt Nam đã thêm hiện thực hóa. Những đảo nhân tạo và công trình quân sự ở đây sẽ chặn yết hầu các tuyến chi viện từ đất liền ra đảo, đồng thời cắt tuyến đường chi viện của các bên liên quan cho lực lượng đồn trú chốt giữ các đảo, bãi đá ở Trường Sa. Khi đó, TQ sẽ hoàn thành cơ bản “đường lưỡi bò”, thực hiện giấc mơ “Vạn lý trường thành TQ” trên biển Đông.

Ngày 12/6/2014, một chuyên gia của báo Giáo dục VN cũng đã cảnh báo:”Giàn khoan 981 là kế nghi binh, đảo hóa Gạc Ma mới uy hiếp ta thực sự.”

Trong khi đang xâm lược, TQ khinh miệt VN tới mức thậm chí không thèm che giấu. Báo mạng TQ China.com ngày 15-9- 2014 cho biết, từ cuối năm 2013 đến nay chính phủ TQ đã đưa thiết bị và nhân lực đến bãi san hô Châu Viên (đá Châu Viên) thuộc quần đảo Trường Sa để xây dựng bãi đá này thành đảo nổi, nhằm biến nơi này thành hòn đảo lớn nhất nằm trong các đảo ở Trường Sa. Báo này còn nói rõ, việc hút cát dưới biển đắp lên bãi đá Châu Viên vẫn đang được tiến hành nhằm “mở rộng diện tích đất liền của Trung Quốc”.

Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định đây là hành vi thay đổi hiện trạng trên biển Đông, nằm trong chiến lược chiếm đoạt chủ quyền VN của Trung Quốc. “Hành động đó chắc chắn sẽ khiến căng thẳng trên biển Đông tiếp tục leo thang”.

Chuyên gia Raul Pedrozo, cựu luật sư thuộc Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, cũng cảnh báo việc Trung Quốc xây đảo nổi trên bãi Gạc Ma là nằm trong ý đồ xây một “Vạn lý trường thành” trên biển Đông nhằm chiếm đoạt hoàn toàn vùng biển này( Theo tạp chí National Interest của Mỹ). Và ông khẳng định: nghiên cứu kỹ lịch sử khu vực và luật pháp quốc tế cho thấy Trung Quốc không có bất cứ cơ sở gì để đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. “Xung đột trong khu vực sẽ khiến cả nền kinh tế thế giới bất ổn. Mỹ phải thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ phản ứng chống lại Trung Quốc và khuyến khích các nước đồng minh hành động tương tự. Việt Nam nên tiếp bước Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế” – luật sư Pedrozo kêu gọi.(Theo :Trung Quốc mở rộng Gạc Ma, thành vi thâm độc và nguy hiểm- Tuổi trẻ- 12/9/2014)

Một điều không thể lý giải nổi là tại sao VN biết rõ việc TQ lâu nay đã công nhiên vận dụng những nguồn nhân tài vật lực khổng lồ để hoàn tất những công trình xâm lược lãnh thổ VN như đã nêu trên nhưng cho đến thời điểm này, từ phía nhà cầm quyền VN đã phản đối hết sức yếu ớt trên công luận.

Như chúng ta đã biết, để cứu VN thoát khỏi sự thôn tính của TQ, điều tối thiểu mà nhà cầm quyền VN phải làm là lên tiếng kiện TQ ra tòa án quốc tế, ngăn cản bằng mọi giá việc TQ xây dựng trái phép trên lãnh thổ VN, và đòi lại phần lãnh thổ lãnh hải đã bị xâm lấn nhưng VN đã hầu như chỉ tập trung phản đối giàn khoan 981 một cách chậm chạp, không thỏa đáng, khi sức ép bất bình trong nước và quốc tế rộ lên và hoàn toàn không kiện TQ ra tòa.

Báo China

Như vậy, rất khó có thể trách dư luận đã luôn đặt câu hỏi về việc có hay không sự “tiếp tay” cho TQ xâm lược VN. Có một số người còn cho rằng việc này đã nằm trong tiến độ thực hiện lộ trình “bán nước” giữa một số nhà cầm quyền VN và TQ, ngay từ Hội nghị Thành Đô?!

Bây giờ thì tiếng kèn chiến thắng của TQ đã lại thêm một lần và sẽ còn liên tục réo vang trên lãnh thổ VN. Từ đây TQ có thể tiến tới cả vùng nhận diện phòng không trên biển Đông, lãnh thổ lãnh hải và không phận VN ngày càng bị xà xẻo, chưa kể còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh khu vực và quốc tế. Dẫu cho ngày 3/10/2014 Mỹ đã đồng ý nới bớt lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN, thì cũng đã quá muộn, “nước xa làm sao cứu được lửa gần”?

Rõ ràng đây là một thất bại lớn, đau thương cho VN. Mảnh đất cha ông đã giữ gìn bằng máu xương và nước mắt bao đời, nay bị rơi vào tay kẻ xâm lược một cách lãng xẹt, trong tình thế TQ “bất chiến tự nhiên thành”, chẳng khác gì “vào chốn không người”.

Và VN tuyên bố chiến thắng?

Theo logic tối thiểu, với kỹ thuật theo dõi hiện đại mà ngành an ninh quốc phòng VN đã được trang bị, cho đến ngày 6/10/2014, những người có trách nhiệm và nhà cầm quyền VN không thể không biết tường tận về việc những hòn đảo và sân bay quân sự TQ đã hoàn tất trên quần đảo thuộc chủ quyền VN.

Nhưng dư luận quá sốc, khi sự thể đang nước sôi lửa bỏng , thay vì phải thực thi những hành động cấp bách kèm theo những tuyên bố phản đối mạnh mẽ để cứu nước, giành lại lãnh thổ đã bị cướp bóc, thì trong cuộc gặp cử tri Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại khẳng định:

“…Trong giải quyết căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi…” . “Dư luận quốc tế đánh giá cao và rất hoan nghênh chúng ta trong ứng xử về vấn đề này. Ngay ở trong nước, tôi nghĩ bà con và tất cả các cấp, các ngành rất tán thành chủ trương của chúng ta về xử lý vấn đề biển Đông thời gian qua. Kiên quyết nhưng rất mềm mỏng và đạt được hiệu quả cao” – Tổng bí thư nhấn mạnh”. (theo Tuổi trẻ, bài : “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Chúng ta đã giành được thắng lợi…” – ngày 6/10/2014).

Về phía QH VN, phản ứng cũng hết sức “dịu dàng”, nếu không nói là thờ ơ mặc dù sự kiện này diễn ra ngay trong phiên họp UB Thường vụ QH. Một ngày sau tuyên bố của Tân Hoa xã về việc đã xây xong đường bay quân sự trên đảo Phú Lâm, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, đề xuất dự kiến đến 16h ngày 25/10/2014, QH dành một giờ để nghe CP báo cáo về tình hình biển Đông(Theo Tuổi trẻ ; Báo cáo QH việc TQ xây dựng đảo ở Trường Sa – 8/10/2014). (Nghĩa là 8 ngày sau mới nghe báo cáo và chưa biết bao giờ mới lên tiếng phản đối hoặc hành động!).

Đảng và QH đã dịu dàng khác thường thế, lại thêm về phía CP, người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN, cũng chỉ lên tiếng nhân tiện trong cuộc họp báo thường kỳ, tận hai ngày sau khi TQ tuyên bố xây xong sân bay quân sự. Ông Lê Hải Bình nói rằng hành động nêu trên của TQ là “vô giá trị”, yêu cầu TQ không để tái diễn những hành động sai trái tương tự, đóng góp thiết thực vào việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa VN và TQ…”.

Xem những phản ứng như trên, người có lý trí bình thường không thể không liên tưởng đến chuyện ngược đời:

Chủ nhà dịu dàng ngồi lặng ngắm kẻ cướp vừa xông vào chửi bới vừa vơ vét của cải mang đi, lại còn xẻo mất đất đai nhà cửa, xây lô cốt chiếm đóng. Đợi khi kẻ cướp nói rằng tao đã cướp xong nhà mày rồi đó, chủ nhà liền vui sướng tuyên bố: ta đã chiến thắng!

Vâng, có thể TQ và một số người trong nhà cầm quyền VN đã chiến thắng. Chỉ có nhân dân VN nghẹn ngào thất thủ trên mảnh đất hình chữ S chồng chất đớn đau nhục nhã này mà thôi./.

Võ Thị Hảo, Hà Nội 09/10/2014

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Posted in Hoàng Sa - Trường Sa - Biển Đông, Người Việt - Nước Việt, Tác giả trong nước | Tagged: , , , , , | Leave a Comment »

Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England

Posted by Webmaster on October 2, 2014

Hình ảnh các hoạt động và sinh hoạt từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2014

Jan 5, 2014  –  New Year tại nhà anh chị Tuấn

Jan 19, 2014 – Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Trân Hải Chiến Hoàng Sa (1974 -2014) tại Boston.

April 30, 2014 – Ngày Quốc Hận, Boston

May 8, 2014 – Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England gửi thỉnh nguyện thư đến Bộ Ngoại Giao Mỹ

May 9, 2014 – Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England tham dự Ngày Nhân Quyền Việt Nam 2014 tại Thượng Viện Hoa Kỳ

May 26, 2014 – Memorial Day 2014 tại Dorchester, Massachusetts

May 30, 2014 – Biểu Tình Chống Trung Cộng Tại Trụ Sở Liên Hiệp Quốc New York

June 1, 2014 – Dorchester Day 2014

June 14, 2014 – Tưởng Niệm Ngày Quân Lực 19/6 tại Boston

June 21, 2014 – Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế 2014 – New York City – 21/6/2014

July 9, 2014 – Ngày Hát Cho Biển Đông và Quyền Con Người

Aug 3, 2014 – Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 8, HPNCV/NE đóng 500 dollars

September 27, 2014 – HPNCV/NE vinh danh Trúc Hồ/SBTN và Việt Dzũng

 

Posted in HPNCV/NE, Người Việt - Nước Việt, Nhịp sống cộng đồng Boston/New England, Sinh hoạt | Leave a Comment »

‘Nếu Joshua Wong ở Việt Nam…’

Posted by Webmaster on October 2, 2014

Biểu tình ủng hộ Hong Kong tại London

Biểu tình ở thủ đô nước Mỹ ủng hộ Hong Kong

Đường phố Hong Kong ‘như lễ hội’

 

1 tháng 10 2014

Nhà vận động dân chủ Joshua Wong (Hoàng Chi Phong - giữa) năm nay 17 tuổi

Nhà vận động dân chủ Joshua Wong (Hoàng Chi Phong – giữa) năm nay 17 tuổi  ↑

Mấy ngày này ngoài công việc, có bao nhiêu thời gian rảnh thì tôi lại vào mạng và chăm chú hướng về Hong Kong, nơi có các bạn trẻ đang tranh đấu đòi dân chủ cho quê hương mình.

Qua các bài báo, thông tin, hình ảnh và qua xem trực tiếp trên link YouTube có thể thấy các bạn trẻ Hong Kong rất có ý thức tổ chức và hành động rất nhịp nhàng. Mỗi một bạn trẻ là một thủ lĩnh tiềm năng và sẳn sàng đứng lên thay thế nên chiêu “bắt nhốt, cô lập những người đứng đầu” của chính quyền đã không thể dập tắt được các cuộc biểu tình diễn ra.

Các bạn trẻ không đập phá, đốt xe cảnh sát, không chửi bới nhục mạ khiêu khích cảnh sát, không đập phá hôi của. Các bạn thu gom rác, giữ sạch sẽ nơi công cộng. Các bạn nhanh nhạy cập nhật thông tin lên internet và dùng nước mắt cùng lòng kiên định của mình để đối phó với dùi cui và hơi cay.

Và các bạn đã cho chính quyền, người dân và cả thế giới thấy việc các bạn đang làm là đúng đắn. Các bạn kêu gọi sự ủng hộ của mọi giới, mọi nước từ chính hành động của mình.

Người dân Hong Kong ủng hộ các bạn, cha mẹ các bạn ủng hộ các bạn và tất cả đã làm nên một sức mạnh to lớn. Vì sao các bạn làm được những điều ấy?

Vì các bạn có một môi trường phát triển tốt, các bạn được nuôi dạy để trở thành những công dân xã hội đầy trách nhiệm và nhân bản.

Ngậm ngùi cho Việt Nam

Ngưỡng mộ cùng khâm phục các bạn trẻ Hong Kong, nhìn lại đất nước mình, thế hệ trẻ ở đất nước mình mà không khỏi ngậm ngùi. Đất nước này không hề thiếu những thanh niên nhiệt huyết như Joshua Wong. Đã có những bạn trẻ phải vào tù vì hành động yêu nước, đòi dân chủ cho quê hương.

Những cuộc biểu tình, xuống đường của các nhóm xã hội dân sự khởi xướng thường không thu hút được nhiều người tham gia.

Những người tham gia biểu tình dễ dàng bị đàn áp, bắt bớ, đánh đập và các cuộc biểu tình nhanh chóng bị phá vỡ. Lần hồi chìm ngấm.

Khi có các cuộc biểu tình lớn nổ ra thì lại xảy ra tình trạng đập phá, hôi của, đốt phá quá tàn tệ. Người dân không tham gia hưởng ứng và không ủng hộ biểu tình dưới mọi hình thức.

Biểu tình lớn ở Việt Nam nổ ra với cảnh đập phá, hôi của

Biểu tình lớn ở Việt Nam nổ ra với cảnh đập phá, hôi của ↑

Và cũng chính người dân xuống đường biểu tình dưới hình thức xin-cho khi và chỉ khi quyền lợi chén cơm manh áo sát sườn bị đụng đến. Các nhà hoạt động xã hội dân sự cô đơn, chia rẻ và không tập hợp được lực lượng. Bên cạnh đó họ còn phải chịu đựng áp lực từ gia đình, người thân, bạn bè và có nguy cơ tù đày bất cứ lúc nào.

Tôi tự hỏi, nếu Joshua Wong ở Việt nam, bạn làm được gì? Có thể bạn sẽ bị bắt, bị nhốt ngay khi bạn vừa có ý đồ thành lập nhóm. Hoặc giả ba mẹ bạn sẽ chửi mắng bạn và quyết liệt ngăn cản bạn bằng mọi biện pháp và họ biện minh đó là vì họ “yêu” bạn. Họ không cho bạn sống với ước mơ của mình, họ không để bạn tự do làm điều bạn muốn và khi bạn tham gia hoạt động xã hội..họ sẽ chửi bạn là thằng con ngu dại.

Bạn bè của bạn sẽ xa lánh bạn, bạn không thể tập hợp được những bạn bè cùng chí hướng để lập kế hoạch cho bất cứ việc gì ngoại trừ chơi. Nhà trường sẽ tạo áp lực buộc bạn phải đi theo lề và nếu bạn bất tuân họ sẽ ném bạn ra khỏi cổng trường ra ngoài xã hội-cái xã hội nơi chỉ biết có tiền và thân thế. Bạn sẽ thất nghiệp, vật vờ và ý chí bị bẻ gẫy.

Gia đình bạn sẽ gào lên và cho rằng thật nhục nhã khi có một thằng con như bạn! Bạn sẽ cô đơn vô cùng vô tận trong một xã hội mà ở đó người ta chỉ biết nghĩ và sống cho mình, không có mấy người làm tròn trách nhiệm một công dân xã hội.

Những ngày này, tôi thấy rất nhiều sự so sánh giới trẻ Hong Kong và giới trẻ Việt Nam.

Càng ngưỡng mộ giới trẻ Hong Kong bao nhiêu thì người ta lại càng ngậm ngùi và không ít trách mắng giới trẻ Việt Nam bấy nhiêu.

Càng ngưỡng mộ giới trẻ Hong Kong bao nhiêu thì người ta lại càng ngậm ngùi và không ít trách mắng giới trẻ Việt Nam bấy nhiêu.

Tuy nhiên, khi ngồi nhìn lại mọi sự, tôi thấy thông cảm hơn là trách giới trẻ Việt Nam. Người tôi muốn trách là các bậc làm cha làm mẹ ở Việt Nam.

Các vị đã làm hỏng chính đất nước này khi đi theo một con đường mà chính các vị cũng tù mù không biết nó dắt dân tộc về đâu. Cứ coi như là lúc đó các vị không biết và tin tưởng vào lý tưởng của các vị đi nhưng trải qua mấy chục năm càng ngày càng thụt lùi, càng ngày càng xuống cấp về mọi mặt mà các vị vẫn im lặng và mặc nhiên chấp nhận thì trách nhiệm của các vị với xã hội nằm ở đâu?

Bên cạnh đó các vị lại góp sức cùng với hệ thống giáo dục nhồi sọ, tuyên truyền hoang đường bằng thói gia trưởng, áp đặt theo hủ tục hoặc bảo bọc quá đáng làm hỏng hết thế hệ trẻ này đến thế hệ trẻ khác.

Cha mẹ câm lặng và sợ hãi

Gia đình là tế bào của xã hội. Những bậc làm cha mẹ là tấm gương cho con cái nhưng các vị luôn sợ hãi và câm lặng, bàng quan trước bất công sai trái thì những đứa trẻ trong gia đình lớn lên cũng sẽ như thế.

Chính quyền độc tài tuyên truyền nhồi sọ và triệt tiêu tư duy, cho ra những sản phẩm cúi đầu tuân phục và các bậc cha mẹ luôn nhiệt tình hưởng ứng đầu độc, giết hại tâm hồn con trẻ từ khi nó mới sinh ra.

Mùa thi: phụ huynh học sinh Việt Nam phá cổng tràn vào trường

Mùa thi: phụ huynh học sinh Việt Nam phá cổng tràn vào trường ↑

Tôi nói như thế có quá nặng nề không? Xin thưa không. Hãy nhìn lại chính mình từ những điều nhỏ nhất. Đã có bao giờ các vị ngăn cản con mình tự do leo trèo, tự do chơi bẩn, tự do cắt dán, vẽ viết thay vì hướng dẫn chúng chơi đúng cách?

Đã có bao giờ các vị cấm đoán hoặc tước bỏ quyền được thử nghiệm các trò chơi cảm giác mạnh của bọn trẻ mà các vị cho là nguy hiểm thay vì dạy cho chúng cách an toàn. Thấy hồ nước các vị cấm trẻ lại gần thay vì dạy chúng biết bơi.

Thấy bạn của chúng “hư hỏng” (theo nhận định của các vị) thì các vị cấm con mình chơi cùng thay vì các vị dạy con mình nên tìm hiểu và giúp con mình quan tâm giúp đỡ bạn… Ví dụ nhiều vô cùng, kể sao cho xiết. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia với một cái khuôn quái gở ra đời, tồn tại, tiếp nối.

Hi vọng gì? Các vị kêu gào Việt Nam tụt hậu, không sản xuất nổi cái đinh gỉ nhưng cũng chính các vị sẳn sàng đánh đập bầm dập một đứa trẻ nếu nó tháo cái radio của các vị ra “nghiên cứu”.

Chờ mong gì? Chính các vị đã giết chết sự sáng tạo, tìm tòi học hỏi của con trẻ và nhồi cho nó những điều không tưởng hoặc thói yêu-thương-có-điều-kiện.

Một xã hội có thay đổi hay không, có phát triển hay không là nhờ vào những con người trong xã hội đó. Giới trẻ Việt Nam ngày nay là sản phẩm tất yếu của cái xã hội nơi mà mọi giá trị văn minh, văn hóa, đạo đức bị bào mòn và mất dần. Chúng không thể phát triển bình thường và trở thành công dân xã hội trong một môi trường bị đầu độc từ nhà cho đến trường và xã hội như thế.

h5

Chúng ta muốn thay đổi, chúng ta muốn được hưởng phồn vinh, tự do dân chủ, yên bình nhưng chúng ta không chấp nhận hi sinh, đánh đổi trả giá thì mãi mãi chúng ta chỉ là những con cừu trong một đất nước ngày càng lùi dần về mông muội.

Thay đổi thể chế, thay đổi giáo dục để xây dựng lại mọi thứ, đào tạo lại con người? Vâng, điều đó lại cũng cần đến sự chấp nhận hi sinh, thay da đổi thịt-một quá trình đau đớn-mà không phải ai cũng sẳn sàng.

Khi nào có được đám đông ý thức được trách nhiệm của chính mình đối với xã hội thì lúc đó chúng ta mới có thể làm nên cuộc đổi thay. Hãy vứt bỏ những tự hào ảo tưởng và nhìn lại chính mình.

Hãy bắt đầu từ những hành động nhỏ nhất, thay đổi tư duy chính mình và người khác từ gia đình ra xã hội.

Cùng nhau trao đổi vấn đề và tìm giải pháp là bạn đang thực hiện trách nhiệm công dân của mình.

Tri thức không tự dưng mà có, dân chủ, tự do, văn minh và phát triển không từ trên trời rơi xuống nếu chúng ta không đứng lên giành lấy và thực hiện quyền cũng như trách nhiệm của mình.

Bài đã đăng trên trang Facebook cá nhân, thể hiện quan điểm riêng của tác giả Bích Ngà, hiện sống tại Hà Nội.

Posted in Người Việt - Nước Việt | Tagged: , , , , | Leave a Comment »

Hội Phụ Nữ Cờ Vàng NE tặng quà lưu niệm cho Trúc Hồ và Phu Nhân Cố Nhạc Sĩ Việt Dzũng

Posted by Webmaster on October 1, 2014

Ngày 27 tháng 9 năm 2014, nhân dip̣ kỷ niệm 8 năm ngày thành lập Đài SBTN-Boston, Hội Phụ Nữ Cờ Vàng New England đã trao tặng quà lưu niệm cho Nhạc Si Trúc Hồvà Phu Nhân của Cố Nhạc Sĩ Việt Dzũng – bà Bebe Hoàng Anh.

Lưu niệm Trúc Hồ

 

Lưu niệm Việt Dzũng

 

Hinh 1 NN

 

03

Posted in HPNCV/NE, Người Việt - Nước Việt, Nhịp sống cộng đồng Boston/New England, Sinh hoạt | Tagged: , , | 1 Comment »

Binh nhất Mỹ và Đại tướng Việt

Posted by Webmaster on September 11, 2014

 

Đồng Phụng Việt

binh va Giap 1

Năm ngoái, khi tướng Giáp từ trần, bạn mình gửi cho mình một đường dẫn, bảo mình vào xem một video clip trong YouTube,…Mình ngồi hơn một tiếng, xem xong video clip đó và tự thấy phải tìm thêm thông tin.

Năm rồi, hễ rảnh là mình vào Google, lục lọi để kiếm những thông tin mà mình chưa biết. Bây giờ, tuy chưa biết đủ nhưng có thể tạm xem là biết đôi chút, mình muốn chia sẻ ít dòng…

***

Video clip mà mình vừa đề cập ghi lại lễ tang của Specialist Brittany Gordon, 24 tuổi, phục vụ trong Đại đội 572 Quân báo, Lữ đoàn Cơ động số 2, Sư đoàn 2 Bộ binh Mỹ. Specialist Gordon bị thương khi xe của cô cán trúng mìn ở Kandahar, Afghanistan và chết vào ngày 13 tháng 10 năm 2012.

binh va Giap 2

So với quân đội Việt Nam, cấp bậc trong quân đội Mỹ có một số khác biệt.

Với quân đội Việt Nam, lính trơn chỉ có Binh nhì, Binh nhất, sau đó là tới ngạch hạ sĩ quan, bắt đầu bằng Hạ sĩ,… Trong quân đội Mỹ, lính trơn có tới 4 bậc, từ E1 đến E4. E4 lại chia làm hai loại, một loại gọi là Specialist, loại còn lại gọi là Corporal (Hạ sĩ). Tuy lãnh lương và nhận các phúc lợi giống hệt nhau nhưng Specialist vẫn bị xem là lính, còn Corporal thì ở ngạch Hạ sĩ quan (bắt đầu có quyền chỉ huy).

Thời gian trung bình để trở thành một Specialist trong quân đội Mỹ là hai năm. Nếu đã tốt nghiệp đại học, gia nhập quân đội nhưng không muốn làm sĩ quan thì tân binh trở thành Specialist ngay từ ngày đầu tiên khi nhập ngũ.

Nói cách khác, Specialist Brittany Gordon chỉ là Binh nhất…

***

Quân đội Mỹ có một căn cứ không quân tên là Dove đặt tại tiểu bang Delaware. Dove có một trung tâm chuyên tẩn liệm những quân nhân Mỹ tử trận ở nước ngoài. Tẩn liệm xong, quan tài được chuyển về cho gia đình.

Video clip mà mình xem ghi lại những nét chính trong lễ tang Binh nhất Brittany Gordon, từ lúc tiếp nhận quan tài chứa thi thể của cô ở căn cứ không quân Macdill, tiểu bang Florida, đưa cô về nhà ở thành phố Saint Petersburg, quận Hillsborough, cách Macdill khoảng 33 cây số, cho đến khi chôn cất cô.

binh va Giap 3

Binh nhất Brittany Gordon được đưa từ Dove về Macdill bằng một phi cơ chuyên dụng. Ngoài thân nhân, đứng đón cô ở cuối phi đạo còn có một nhóm quân nhân mặc lễ phục, cảnh sát, lính cứu hỏa của quận Hillsborough và của thành phố Saint Petersburg.

Tất cả các công đoạn, từ việc đưa quan tài ra khỏi phi cơ, mang quan tài đặt vào xe tang đều theo nghi thức có sẵn, vừa trang trọng vừa thành kính.

Hôm đó, cả căn cứ Macdill ngưng hoạt động, quân nhân từ sĩ quan, hạ sĩ quan tới lính của bộ binh, không quân, hải quân, nhân viên dân sự,… làm việc trong căn cứ, xếp hàng dọc hai bên đường, từ cuối phi đạo đến cổng, tiễn biệt Binh nhất Brittany Gordon.

binh va Giap 4

Ra khỏi Macdill, xe tang chở quan tài Binh nhất Brittany Gordon có xe cảnh sát mở đường đi qua nhiều xa lộ và tuyến đường. Suốt quãng đường dài 33 cây số, tất cả xe cộ đều ngừng lưu thông, cả dân chúng lẫn cảnh sát, lính cứu hỏa các thành phố mà xe chở linh cữu đi ngang, chờ sẵn hai bên đường để chào cô Binh nhất này.

Ở Mỹ, tin người lính nào đó vừa mới tử trận luôn được báo chí và các đài truyền hình địa phương đặt làm tin chính. Cũng vì vậy, tuy không có… loa phường, dân chúng vẫn biết, vẫn đổ ra đường đón người lính trở về trong quan tài phủ quốc kỳ Mỹ.

Lễ tang Binh nhất Brittany Gordon diễn ra cũng với các nghi thức vừa trang trọng, vừa thành kính như vậy.

binh va Giap 5

Chỉ đạo lễ tang của một binh nhất là một ông thiếu tướng. Ông tướng hai sao đó chính là người lần lượt quỳ xuống trước mặt cha và chị Binh nhất Brittany Gordon, trao cho họ lá cờ Mỹ đã phủ quan tài của cô rồi cởi găng tay, bắt tay họ, đeo găng tay, đứng nghiêm chào họ, cung kính như chào thượng cấp…

binh va Giap 6

https://www.youtube.com/watch?v=ghhpYyTw8mo

Binh nhất Brittany Gordon không lập được “chiến công” nào để đời. Cô chỉ tình nguyện gia nhập quân đội rồi cùng đơn vị đến Afghanistan bảo vệ những lợi ích của Mỹ (tiêu diệt khủng bố, giúp tái thiết Afghanistan) và chẳng may thiệt mạng. Tuy nhiên với Mỹ, chừng đó đã đủ để trở thành anh hùng.

Binh nhất Brittany Gordon không phải là ngoại lệ. Từ trước tới giờ, Mỹ vẫn làm như thế với tất cả những người lính “vị quốc vong thân”.

Nếu rảnh và muốn biết tường tận cách Mỹ tiễn đưa một người lính “vị quốc vong thân”, bạn có thể vào YouTube xem video clip mình vừa kể (1).

Muốn xem nhiều hơn, bạn có thể dùng những từ khóa kiểu như “fallen hero coming home”, “hero returns home”… YouTube có hàng ngàn video clip như vậy.

***

binh va Giap 7

Tuy thanh niên tròn 18 tuổi phải “đăng ký nghĩa vụ quân sự” nhưng Mỹ không có “nghĩa vụ quân sự”. Phục vụ quân đội là chuyện hoàn toàn tự nguyện. Để khuyến khích người ta tự nguyện, Mỹ đề ra nhiều chính sách ưu đãi.

Chẳng hạn nếu đã có gia đình, muốn ở trong căn cứ, bạn sẽ được cấp nhà ở miễn phí, ngay cả tiền điện, nước, rác cũng không phải trả. Không muốn ở trong căn cứ, bạn sẽ được cấp tiền thuê nhà, số tiền nhiều hay ít sẽ phụ thuộc vào giá cho thuê nhà ở nơi gia đình bạn sống.

Không chỉ bạn mà thân nhân của bạn cũng sẽ được khám, chữa bệnh miễn phí.

Đã hoặc đang phục vụ quân đội, muốn mua nhà, bạn không cần phải có khoản tiền tương đương 20% giá trị căn nhà để đặt cọc như mọi người Mỹ khác. Bộ Cựu chiến binh của chính phủ Mỹ sẽ bảo lãnh để bạn được vay 100% và lãi suất luôn luôn ở mức ưu đãi.

Nếu bạn đã từng vay tiền để học gì đó trước khi phục vụ quân đội, quân đội sẽ thay bạn trả khoản nợ này. Trong thời gian phục vụ quân đội, bạn muốn học thêm gì đó, quân đội cũng đứng ra trả học phí thay bạn. Phục vụ đủ mười năm, người phối ngẫu và con cái của bạn sẽ được trả tiền học phí khi họ muốn học nghề hoặc học đại học.

Tại các căn cứ quân sự đều có chợ và siêu thị. Vì được bù lỗ nên giá bán thực phẩm và hàng hóa chỉ khoảng một phần ba hay một nửa giá ở bên ngoài. Chưa kể mua thực phẩm và hàng hóa trong các căn cứ quân sự không phải trả thuế.

Các căn cứ quân sự thường chỉ có trường từ mẫu giáo đến cấp hai. Cơ sở vật chất của các trường trong các căn cứ quân sự luôn khang trang, đầy đủ hơn những trường ở bên ngoài. Giáo viên cũng đông hơn, sĩ số mỗi lớp thì thấp hơn các trường bên ngoài vì Mỹ quan niệm, con lính cần được chăm sóc kỹ hơn, do thiệt thòi hơn bởi cha hoặc mẹ có thể vắng nhà dài ngày.

Hồi đầu năm nay, một tờ báo của quân đội Mỹ cảnh báo, con lính Mỹ đang gặp nguy hiểm vì thực phẩm dành cho chúng trong các trường ở những căn cứ quân sự “không an toàn”. Yếu tố “không an toàn” nằm ở chỗ… dư thừa dưỡng chất và con lính có khuynh hướng béo phì.

Luật Mỹ yêu cầu chính quyền liên bang phải ưu tiên tuyển dụng các thương binh, thân nhân tử sĩ, cựu quân nhân.

binh va Giap 8

Theo luật, vị trí nào mà chính quyền liên bang cần tuyển dụng cũng phải mô tả “điều kiện tối thiểu”. Nếu các thương binh, thân nhân tử sĩ, cựu quân nhân, hội đủ “điều kiện tối thiểu” thì theo luật, vị trí đó phải dành cho họ.

Trong trường hợp cần “tinh giản biên chế”, luật Mỹ yêu cầu các cơ quan của chính quyền liên bang phải giữ lại các thương binh, thân nhân tử sĩ, cựu quân nhân. Các cơ quan của chính quyền liên bang chỉ có quyền loại bỏ những đối tượng này nếu như đã loại bỏ hết những nhân viên thuần túy dân sự khác.

Những chính sách vừa kể áp dụng cho tất cả mọi cá nhân đã hoặc đang phục vụ quân đội. Dẫu cho họ chỉ là… binh nhì.

Dân Mỹ vốn sính kiện nhưng chưa bao giờ có ai thắc mắc về những “đặc quyền, đặc lợi” dành cho những người phục vụ quân đội.

Nếu có thời gian, bạn nên đọc những bình luận bên dưới các video clip ghi lại hình ảnh liên quan tới lễ tang những người lính Mỹ tử trận, các bạn sẽ hiểu tại sao.

Công dân của xứ sở sính kiện có thể là nhất hành tinh này, xem những “đặc quyền, đặc lợi” dành cho những người phục vụ quân đội là điều đương nhiên.

 

binh va Giap 9

Điều đương nhiên đó nhằm bù đắp thiệt thòi cho những người chấp nhận từ bỏ “chăn ấm, nệm êm”, chấp nhận đủ thứ ràng buộc để bảo vệ xứ sở, bảo vệ tự do, bảo vệ những giá trị của người Mỹ.

Đa số các công ty, cơ sở dịch vụ ở Mỹ đều có chính sách “giảm giá cho lính Mỹ”. Đi máy bay, lính không phải trả phụ phí do quá nhiều hành lý hay hành lý quá ký. Gần như tất cả phi trường ở Mỹ đều có “USO”. “USO” giống như khu vực dành cho “VIP” ở các phi trường tại Việt Nam. Tại Việt Nam, khu vực “VIP” ở các phi trường chỉ dành cho giới nhà giàu, đủ tiền mua vé hạng “C”. Ở Mỹ “USO” tại các phi trường chỉ tiếp đón lính Mỹ và thân nhân. “USO” là chỗ họ có thể ngủ nghỉ, tắm rửa, xem phim, ăn uống,… tất cả đều miễn phí.

***

binh va Giap 10

Lịch sử Mỹ là một chuỗi dài những lần dính líu vào đủ thứ chuyện trên thế giới. Cũng vì vậy mà lính Mỹ khổ. Họ bị đưa đi khắp năm châu: Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc và chết khắp năm châu. Có thể vì vậy mà Mỹ có một cam kết với lính khi đưa họ vào chỗ chết. Đó là bất kể thế nào cũng sẽ “đưa lính về nhà”.

Để làm chuyện này, quân đội Mỹ thành lập Bộ Chỉ huy hỗn hợp về Tù binh và Tìm kiếm quân nhân mất tích (Joint POW/MIA Accounting Command – JPAC).

 

JPAC có một trang web (2). Trang web đó tường trình mọi hoạt động liên quan đến các hoạt động tìm lính Mỹ mất tích trên khắp thế giới từ Thế chiến thứ nhất cho đến giờ. JPAC tất nhiên là có văn phòng ở Việt Nam. Đến giờ, Mỹ vẫn còn tìm kiếm lính Mỹ mất tích tại Việt Nam.

 

Nếu bạn rảnh, hãy thử tra cứu trên Internet để tìm hiểu về bang giao Việt – Mỹ, bạn sẽ thấy tù binh Mỹ và lính Mỹ mất tích đã tạo cho chính quyền Việt Nam ưu thế để đòi hỏi chính quyền Mỹ phải nhượng bộ nhiều vấn đề, cả trong giai đoạn trước tháng 4 năm 1975 lẫn sau đó.

Suốt sáu thập niên, hết đảng viên Cộng hòa đến đảng viên Dân chủ thay nhau làm Tổng thống Mỹ nhưng trong các cuộc đàm phán với Việt Nam, Tổng thống nào cũng phải thoái bộ để có điều kiện thuận lợi, thực thi lời hứa “đưa lính về nhà”.

binh va Giap 11

Hôm 29 tháng 8, báo chí Mỹ loan tin, Mỹ vừa mang Binh nhất Cecil E. Harris về nhà. Binh nhất Cecil E. Harris, 19 tuổi, lính của Trung đoàn 179, Sư đoàn 45 Bộ binh Mỹ, mất tích vào ngày 2 tháng 1 năm 1945 trong một trận giao tranh với lính phát xít Đức ở gần Dambach, Pháp.

Hai ngày trước khi tử trận, Binh nhất Cecil E. Harris viết thư cho mẹ, nhờ bà chuyển lời thăm hỏi mọi người, nhắn với họ rằng mình sắp về. Tuy chữ “sắp” này dài đến 69 năm nhưng thân nhân Binh nhất Cecil E. Harris vẫn hài lòng, bởi dù sao, chính quyền cũng đã thực thi cam kết “đưa lính về nhà” (3).

***

Đó là những chuyện ở Mỹ. Những chuyện ở Mỹ làm mình liên tưởng và băn khoăn về những chuyện ở xứ mình…

Trước hết là những băn khoăn về tướng Giáp. Rõ ràng, tướng Giáp là một “khai quốc công thần” khi cùng đồng chí, đồng đội của ông kiến tạo chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

binh va Giap 12

Hàng triệu người đã chết khi tham gia vào công cuộc kiến tạo đó song tại sao 69 năm đã trôi qua, còn rất nhiều người mất xác mà chính quyền không hề bận tâm tìm kiếm?

Dù chẳng có thống kê nào cả song vẫn có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, con số đó rất lớn.

“Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất” đã 39 năm nhưng các “nhà ngoại cảm” vẫn có đất dụng võ, kiếm cả danh lẫn lợi!

binh va Giap 13

Ngoài hàng triệu người đã chết, hàng triệu người khác từng xả thân để “giành độc lập dân tộc”, để “đánh Ngụy, đuổi Mỹ” nay vẫn cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Cha mẹ, anh em, con cháu vất vưởng, vật vờ, sống hôm nay nhưng không dám nghĩ tới ngày mai.

 

Lẽ nào tướng Giáp vô can?

 

Con đường công danh của tướng Giáp có thể lận đận, khiến nhiều người đủ thương cảm để bỏ qua yếu tố dù bị bạc đãi, song nhờ “nhẫn”, ông vẫn bình an trên nhung lụa, trong tháp ngà, rồi lên tiếng bày tỏ sự bất bình thay cho ông, song nào con đường dẫn tới cơm no, áo ấm của hàng chục triệu người, nay là của gần một trăm triệu người không đáng để phải bận tâm nhiều hơn?

Mình cũng băn khoăn về cuộc tranh luận dường như bất tận quanh đề tài quân đội nên vì dân hay nên vì Đảng?

70 năm qua có lúc nào quân đội chiến đấu vì dân? Những tài liệu đang được giải mật, bạch hóa càng ngày càng nhiều cho thấy là chưa bao giờ!

 

Quân đội chiến đấu vì Đảng nên sự tồn vong của Đảng, bảo vệ tham vọng “Muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ” của Đảng là mục tiêu tối thượng.

Tham vọng ấy là lý do để “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và “tinh thần 4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) được chọn làm điểm tựa.

Chẳng phải hết lãnh đạo Đảng, rồi tới lãnh đạo quân đội từng nhiều lần khẳng định, bất kể thế nào cũng phải gìn giữ quan hệ với Trung Cộng vì Trung Cộng “có cùng ý thức hệ và thể chế chính trị” đó sao?

Đã thế thì hàng trăm ngàn người đã chết trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, giai đoạn từ 1978 – 1989 và trong cuộc chiến vệ quốc ở biên giới phía Bắc, giai đoạn từ 1979 – 1988 tất nhiên phải trở thành thứ yếu. Không thể ghi công, không nên tưởng niệm, ngay cả bia cũng cần đục bỏ bởi tất nhiên là ảnh hưởng đến điểm tựa giúp duy trì sự tồn tại của Đảng.

binh va Giap 14

Đúng 30 năm sau cuộc chiến đẫm máu ở Vị Xuyên – Hà Giang, 1.700 người lính Việt tử trận khi chặn quân xâm lược Trung Cộng tràn qua biên giới, mới được báo giới Việt Nam báo công, vinh danh. Đại diện chính quyền mới đề cập đến việc xây Đài Tưởng niệm.

Nếu không có sự kiện Trung Cộng đưa giàn khoan 981 vào thăm dò – khai thác dầu khí ở quần đảo Hoàng Sa hồi tháng 5 vừa qua, khiến người Việt sôi lên vì giận thì theo bạn, hồi tháng 7 vừa qua, 1.700 người lính Việt đó có được báo công, vinh danh và đại diện chính quyền có quảng cáo kế hoạch xây Đài Tưởng niệm họ không?

***

binh va Giap 15

Để ghi nhận công lao của Liệt sĩ – Nữ anh hùng các lực lượng vũ trang Lê Thị Dãnh, Đảng đúc tượng của bà, đặt ở Đà Nẵng.

Hồi xảy ra thảm họa Chanchu (trận bão số 1 của năm 2006), báo chí xứ mình kể rằng, tại phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng có một bà lão tên là Phạm Thị Thúy khóc ngất vì mất chồng. Ông Nguyễn Văn Độ, chồng bà Thúy, lúc đó đã xấp xỉ 70, song vì đói nghèo vẫn phải xuống một tàu đánh cá để nấu cơm, phơi mực. Con tàu này bị bão Chanchu nhấn chìm hồi thượng tuần tháng 5 năm 2006.

Bà Thúy chính là con gái của Liệt sĩ – Nữ anh hùng các lực lượng vũ trang Lê Thị Dãnh.

Khi quân đội chiến đấu vì Đảng, quân đội chỉ là công cụ. Hãy nhìn quanh mình, bạn sẽ thấy rất nhiều ví dụ minh họa cho thân phận của những công cụ như vậy.

 

Đồng Phụng Việt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Posted in Người Việt - Nước Việt, Z đến A, Đời sống quanh ta | Tagged: | Leave a Comment »

Saigon Beats Hanoi Four Decades After Vietnam War

Posted by Webmaster on September 8, 2014

By Jason Folkmanis and Nguyen Dieu Tu Uyen Sep 3, 2014 3:01 PM PT

Photographer: Munshi Ahmed/Bloomberg Almost four decades after the Vietnam War ended, Saigon has turned the tables on Hanoi, outstripping its conqueror in investment and growth.

The former southern capital, renamed Ho Chi Minh City but still widely known by its prewar name, contributes almost a quarter of the country’s gross domestic product and the market capitalization of its stock index is seven times Hanoi’s. (VHINDEX) Now, Saigon is upping the ante with plans to build a new airport that would increase capacity as much as fivefold.

“By all measures, Ho Chi Minh City has moved into a more advanced place than Hanoi in terms of the sophistication of its economy and local companies,” said Edmund Malesky, an associate professor of political economy at Duke University in Durham, North Carolina, and the lead researcher for the Vietnam Provincial Competitiveness Index, compiled by the Vietnam Chamber of Commerce and Industry with U.S. aid.

It’s a long way from the chaotic day of April 30, 1975, when North Vietnamese tanks crashed through the gates of the presidential palace. Replicas are now parked outside as a tourist attraction, while the renamed Reunification Palace is a favored venue for shareholder meetings.

Saigon’s population has more than doubled to 7.8 million, while its economy grew 9.3 percent last year, pushing the city’s per-capita GDP to $4,513, more than twice the national average. In Hanoi, which has about 6.9 million residents, the economy grew 8.3 percent to increase its per-capita to $2,985.

Economic Hub

That makes the southern city key to Vietnam’s efforts to revive a national economy heading for its seventh straight year of sub-7 percent growth after averaging 7.3 percent in the previous seven years.

Ho Chi Minh City’s relative wealth makes it the entry point for many Western brands. McDonald’s Corp. (MCD) Chief Executive Officer Donald Thompson attended the opening of the company’s first branch in the country in February. A second opened in May near Ben Thanh market, a landmark where tourists slurp bowls of spicy beef noodles and shop for lacquer boxes and raw silk.

Hanoi got its first Starbucks Corp. store in July — more than a year behind Ho Chi Minh City, which now has eight.

“Saigon is the dynamo, the city with more energy,” said Ray Burghardt, the Hanoi-based U.S. ambassador to Vietnam from 2001 to 2004, who lived in South Vietnam from 1970 to 1973.

Looking South

Part of that dynamism is rooted in the city’s past. Southern Vietnam’s trading roots date back centuries, according to Martin Stuart-Fox, an emeritus history professor at Australia’s University of Queensland in Brisbane. While Hanoi’s history is tied to the presence of neighboring China, about 100 miles away, Saigon, next to the rich alluvial plain of the Mekong Delta, is 700 miles to the south and closer to Thailand, Malaysia and Singapore than it is to the Chinese border.

“Southern Vietnam was always a frontier area, and because it didn’t have that close contact with China and didn’t look north as Hanoi always had, people in the south looked outward instead and welcomed trade,” said Stuart-Fox. “Then, when the French moved in, they built drainage canals to increase rice production in the Mekong Delta and boost trade with France, and in general focused on exploiting the south economically.”

Vietnam’s post-1975 attempts to stifle enterprise misfired “abysmally” in Ho Chi Minh City, with many entrepreneurs sent to labor camps for “capitalist activities,” until a crumbling economy caused Marxist tenets to be diluted or scrapped, Stanley Karnow wrote in his book “Vietnam: a History.” After the so-called Doi Moi economic reforms in 1986, Saigon resumed its role as a commercial hub, with newly freed entrepreneurs quickly resuming their businesses.

Western Influence

Growth was boosted in 2000 with the signing of a bilateral trade agreement with the U.S.

“The south has always had more U.S. influence on its business culture,” said Than Trong Phuc, managing director of technology-focused investment fund DFJ VinaCapital LP in Ho Chi Minh City. “Doing business here is more straightforward, whereas doing business in the north involves more government and a complex maze of relations.”

Saigon’s economy even may have benefited from being on the losing side of the war because it removed much of the government presence that existed when it was the southern capital, said Sesto Vecchi, managing partner of the Ho Chi Minh City office of U.S. law firm Russin & Vecchi. He arrived in South Vietnam in 1965 with the U.S. Navy and was in Saigon in the days before it fell.

Less Government

“Now there’s even less government impact on people’s decision making here,” said Vecchi, who returned to live in the city in 1993. “A lot of the government influence in those days was directed toward the war, but even with that, Saigon always had a strong commercial environment.” Hanoi’s position as the nation’s capital is a double-edged sword. While it makes the city vital for businesses that must deal with the ministries, especially banks, it also creates a more restrictive regulatory environment.

“We need to see more progress in terms of the economic-reform policies coming out of Hanoi,” Burghardt said. “Ho Chi Minh City is a hostage to the speed of those reforms.”

Ho Chi Minh City ranked 10th last year and Hanoi 33rd among 63 Vietnamese provinces and cities in the country’s competitiveness gauge, which weighs measures such as entry cost, transparency and access to land.

Downtown Airport

Ho Chi Minh City’s advance is most evident at the airport, which saw some of the fiercest fighting during the battle for the city in 1975. A 20-minute drive from Reunification Palace, Tan Son Nhat is now in the heart of Saigon’s expanding sprawl of houses, shops and factories. Still coded SGN for Saigon, it’s almost at bursting point, with almost twice the number of passengers that fly in and out of Hanoi.

The planned new airport in neighboring Dong Nai province eventually is expected to handle 100 million passengers a year, compared with about 20 million at Tan Son Nhat. The project needs approval from the National Assembly and its first stage, costing about $7.8 billion, wouldn’t be operational until at least 2020.

Meantime, the number of travelers coming to Vietnam keeps rising, climbing 11 percent last year to 7.6 million. Tourists heading to Hanoi are drawn to the scenic limestone islands of Ha Long Bay; in the south, it’s the beach resorts of Mui Ne and Phu Quoc island or the former emperor Bao Dai’s summer palace in the hills in Dalat.

The latest offering is a resort and casino at Ho Tram beach, with courtesy buses shuttling gamesters for the 2 1/2-hour drive to and from Saigon.

“The beaches in the north can only be used for half the year; the southern beaches are beautiful, and they are usable year-round,” said Paul Stoll, who helped set up the Vietnam Tourism Association and is chief executive of Celadon International Hotel Management Joint-Stock Co. “Ho Chi Minh City is Vietnam’s superhub.”

To contact the reporters on this story: Jason Folkmanis in Ho Chi Minh City at folkmanis@bloomberg.net; Nguyen Dieu Tu Uyen in Hanoi at uyen1@bloomberg.net

To contact the editors responsible for this story: Adam Majendie at adammajendie@bloomberg.net James Hertling

Posted in Người Việt - Nước Việt, Z đến A, Đời sống quanh ta | Tagged: | Leave a Comment »

Sài Gòn vẫn vượt trội Hà Nội sau 4 thập niên bị cưỡng chiếm và tận thu

Posted by Webmaster on September 8, 2014

Saigon Beats Hanoi Four Decades After Vietnam War

09/08/2014

Sài GònTrong một bài viết nghiên cứu về kinh tế đời sống của Việt Nam sau gần 40 năm không chia cắt địa lý chính trị, tờ Bloomberg đã có bài nhận định sâu sắc, nhấn mạnh rằng Sài Gòn vẫn là trung tâm của phát triển và vượt Hà Nội mọi mặt, dù bị cưỡng chiếm, tận thu và bị o ép nhiều mặt.

Trong bài viết có tên Saigon beat Hanoi four decades after Vietnam war ra ngày 3 tháng 9, tờ Bloomberg đã gây nhiều chý ý trong giới nghiên cứu về tình hình Việt Nam, đồng thời cũng làm cho hệ thống kiểm duyệt của Nhà nước CSVN khó chịu, vội vã tìm cách ngăn chận.

Theo nhận định của nhà phân tích Jason Folkmanis, thì hiện nay, dù được dành cho nhiều ưu thế về ngân sách, thậm chí là nuông chiều, nhưng Hà Nội vẫn tụt hậu so với Sài Gòn về đầu tư và phát triển. Một thành phố trước đây là thủ đô của miền Nam tự do, dù có một thời gian ngắn ngủi vươn ra thế giới trong tình cảnh chiến tranh, nhưng lại đủ sức khôn ngoan để xoay sở và sống còn trong ách tận thu của chế độ CSVN.

Hiện nay, Sài Gòn đang là thành phố chiếm một phần tư cả tổng sản phẩm nội địa, thậm chí sức phát triển kinh tế vượt gấp 7 lần so với  thủ đô Hà Nội.

Ông Edmund Malesky, giáo sư về kinh tế chính trị của Duke University, tại Durham, North Carolina, cho biết rằng nếu phân tích chiều sâu, Sài Gòn đang có rất nhiều ưu thế của một nền hoạt động kinh tế hết sức chi tiết tinh tế, cũng như sự vững chắc của hàng loạt các công ty địa phương so với Hà Nội.

Sự thành công vượt trội của Sài Gòn, mà ai cũng biết là bị chế độ CSVN giày xéo như một đội quân chiếm đóng, đã khiến người Sài Gòn hết sức tự hào về thành phố của mình. Sau tháng 4 năm 1975, những người Cộng sản đã đặt lại tên của thành phố này là Hồ Chí Minh, theo lãnh tụ của Đảng CSVN, nhưng người Sài Gòn đã âm thầm từ chối cái tên đó bằng cách vẫn gọi tên nguyên gốc của nó là Sài Gòn, đến mức chính quyền cưỡng chiếm CSVN cũng đành phải miễn cưỡng chấp nhận.

Sài Gòn hiện nay đang có số dân cư ngụ chính thức là 7.8 triệu người, nhưng số người nhập cư để kiếm sống có thể khiến thành phố này có khoảng 10 triệu người ở đây. Mức thu nhập đầu người ở Sài Gòn hiện nay cũng cao hơn ở Hà Nội. Hiện có 6.9 triệu dân trong thành phố, Hà Nội chỉ có thu nhập trung bình đầu người hàng năm là 2.985 Mỹ kim do với Sài Gòn là 4.513 Mỹ kim mỗi người, hàng năm.

Dù vậy, cho tới giờ phút này, Sài Gòn vẫn đang bị tận thu đến mức khó tin cho ngân sách Nhà nước cũng như lọt vào túi riêng của hệ thống quan chức CSVN. (N. Khanh)

 

Posted in Người Việt - Nước Việt, Z đến A, Đời sống quanh ta | Tagged: | Leave a Comment »

Thưa Bác: cháu đếch hiểu nỗi !!!

Posted by Webmaster on September 2, 2014

Vũ Đông Hà – Dân Làm Báo.
hochiminh-thangcuoi-danlambao
Xin lỗi Bác về cái từ đếch không được chỉnh chu. Số là theo lời kêu gào của Đảng ta, nhân ngày Bác giả từ vũ khí, buông búa thả liềm, cháu lò mò lôi di chúc 3 đời của Bác ra học tập ngày đêm. Càng học thì càng bứt rứt và xúc động, chịu hổng nỗi với cơn bức xúc tràn dâng nên đành ngữa mặt lên trời mà ách xì một phát: cháu đếch hiểu nỗi !!!
 
Coi: Theo lời vàng chữ ngọc của đảng ta thì Bác là “nhà báo cách mạng”. Bác bắt đầu sự nghiệp vĩ đại của Bác bằng làm báo, viết báo và tuyên truyền bằng báo (*). Bác còn được xem là người sáng lập, lãnh đạo, chủ bút, phóng viên… kiểu gì Bác cũng chơi… cho tờ Người Cùng Khổ, Thanh Niên… vậy mà cái di chúc 3 đời 65, 68, 69 của Bác nó như đống mèo mửa. Bác lận đận 5 năm để viết cái di chúc mà Đảng ta bắt 90 triệu người phải học, mà học cái gì ?
 
Xem:
Hochiminh-DiChuc1966-3
Q

Bác làm gì vậy Bác!? Chi mà sửa tèm lem tẹp nhẹp máu me tùm lum vậy Bác!? Có vài trang giấy mà Bác phải 5 năm tình lận đận đến đổ máu vậy thì bố ai tin Bác là người viết Bản án chế độ thực dân Pháp ký tên Nguyễn Ái Quốc!

Cháu… đếch có tin!

Còn nữa:

Cái gì mà toàn jân fải jũng cảm, fải mở lớp jạy ngề để họ có thể jần jần tự lực cánh sinh tại địa fương, fải hàn gắn vet thương ngiêm trọng để fục vụ, xây jựng lại nước Việt Nam jân chũ cộng hòa độc lập, tự jo, hạnh fuc…

Mẹ ơi! Học theo Bác để viết tiếng Việt kiểu này thì… fuc thiệt, chẳng khác gì Bác cùng chúng cháu hành quân, lên đường hiếp dâm chữ nghĩa Việt Nam.

Nói thiệt nghe bác: cháu không thích mấy cái thuyết âm miu gì gì đó kết bác là họ Hồ một Tập nhiều Chương do bác Mao sáng tác gửi từ bên Tàu qua. Nói gì thì nói phải đem cái xác Bác xét nghiệm DNA thì cháu mới tin trăm fần trăm.

Nhưng đọc di chúc của Bác thì thú thiệt cháu ước Bác là… thằng Tàu thiệt. Chứ nếu là người Việt Nam, là cha già jân tộc, là lãnh tụ vĩ đại, là chủ tịch muôn năm mà viết lách kiểu này thì nhục cho một đứa học sinh lớp 3 trường làng quá.

 Nhân kỷ niệm ngày Bác thả búa buông liềm đi gặp mác với lê, cháu xin gửi lại các fan của Bác giọng nói của bác để mắt vừa thấy Bác viết làm sao, tai vừa nghe Bác nói ra làm sao…
Q
 Q
Sau cùng, trong những thứ Bác dặn dò mà con cháu đồng chí của Bác không làm theo thì có một điều cháu mong là các đồng chí ấy cứ tiếp tục… mất dạy với Bác, đếch nghe lời Bác. Đó là:
tmp-danlambao
sao ? 
 
Đi “hỏa táng” hay “điện toán” thì thủ tiêu cha nó mọi bằng chứng Bác thật sự là… đứa nào !? (mà hỏi thiệt, hỏi nhỏ nhỏ nghe Bác: phải chăng vì vậy mà Bác dặn chúng nhớ đốt Bác không thì lộ hàng cuốn sách một Tập nhưng nhiều Chương của bác Mao thì chết cha !)
Vũ Đông Hà

Posted in Người Việt - Nước Việt | Tagged: , , | Leave a Comment »

Chúng tôi muốn biết!

Posted by Webmaster on September 1, 2014

chungtoimuonbiet-NguyenPhuongUyen-danlambao

Nguyễn Phương Uyên: Chúng tôi muốn biết!

chungtoimuonbiet-PhamThanhNghien-danlambao

Posted in Người Việt - Nước Việt | Tagged: , , , | Leave a Comment »

We Want To Know

Posted by Webmaster on September 1, 2014

http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/we-want-to-know

We Want To Know

Freedom of speech is closely related to free access to information. Every citizen has the right to access information from the State such as national policies, activities of politicians, and/or the operation of the ruling party in all fields: education, environment, health, and social security to national sovereignty. It is one of the most basic rights of the people.

To provide accurate information, transparency and accountability is the duty of the State.
On the other hand, the right to access information from the State helps the people to assimilate, evaluate, voice criticism or support. This is the fundamental element of democracy. Ignoring that basic right only exists in anti-democratic and dictatorial regimes.
Have you ever asked the question: do the people have the right to know the terms, the signing of treaties that involve national sovereignty or not?
In May 2014, when the Chinese Communists brought its HD-981 rig to encroach the waters of Vietnam, it was for the first time that the 1958 diplomatic note signed by the former Prime Minister, Pham Van Dong, relating to the sovereignty of Paracel and Spratly islands, was publicly mentioned on national media. And it astounded the people of Vietnam because of its extremely damaging content.
It doesn’t matter how the State now tries to justify its action, this 1958 diplomatic note, which was signed with the sole purpose to approve the claim made by the government of the People’s Republic of China on its territorial sovereignty, (including that of the Paracels and Spratlys that belong to Vietnam), has made any citizen concerned about his/her fatherland, must raise the question: why the terms and signed treaty affecting Vietnam’s sovereignty have been kept secret for more than half a century? And this information was only released reluctantly by the Vietnamese government when China had announced it as “evidence” of its so-called jurisdictional right to “own” Vietnam’s Paracels and Spratlys.
The right to be informed is the basis for the people to exercise their right to govern their country. In this case, every title-holder of Vietnam must be informed in order for them to effectively join forces to protect their own legitimate rights, as well as the rights of the whole nation.
In fact, the inter-related interests of the top two groups in the Communist Party of Vietnam and China always compel them to cover information relating to sovereignty, human rights, and economic, social, and cultural issues in Vietnam.
What are the consequences of this “keeping-them-in-the dark” strategy, of this “black hole”?
The people of Vietnam often are caught unprepared by China’s aggressive moves, and confounded by information released by the Chinese government. Meanwhile, the Vietnamese regime represses anyone who wishes transparency, and tries to shed light upon this existing “black hole” and seeks the truth of what has happened and is happening.
One of the agreements that impacts national interests is the “secret” Chengdu treaty in September 1990. Until now, nearly a quarter of a century has passed, and still there is no official information regarding this signed agreement from the Vietnamese government.
Based on the information leak, every citizen is concerned about the prospect of Vietnam turning into a part of China.
There have been individuals, and groups collectively requesting the Vietnamese government to disclose the information. In response, there is only the same strategy “wool hat covering the ears”; ignoring, patronizing, irresponsible behaviour from the State.
The country is in peril. It requires the people to be informed, and the right to know the agreements that have been signed behind their back, and on their backs, 24 years ago, between the two Parties and governments, that detrimentally affect Vietnam’s independence since then and in the future.
We have the right to know, and we want to know what has and is happening.
You – the people of Vietnam whose hearts are heavy with patriotism, with responsibility towards his forefathers and future generations: let us fight resolutely and persistently and demand the right to know based on the basis of our right to know.
Let us start with the Chengdu Treaty’s content in Sept. 1990.
WE WANT TO KNOW!

chungtoimuonbiet-bon-1-MLBVN

Posted in Người Việt - Nước Việt, Tác giả trong nước | Tagged: | 1 Comment »

Ngày độc lập nào?

Posted by Webmaster on September 1, 2014

Lê Công Định

Vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập"Từ lâu tôi luôn tự hỏi phải chăng ngày 2 tháng 9 năm 1945 thật sự là ngày độc lập của nước Việt Nam mới sau gần một thế kỷ làm thuộc địa của Pháp? Trước khi trả lời câu hỏi nghiêm túc này, cần lần giở lại các trang sử hiện đại của nước nhà, để ghi nhận một số sự kiện quan trọng sau đây:

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng, Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngay sau đó, vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là thời điểm đáng lưu ý.
Ngày 7/4/1945, vua Bảo Đại chuẩn y thành phần nội các mới, trong đó học giả Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập. Tháng 6/1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Đến khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Thủ tướng Trần Trọng Kim vào ngày 16/8/1945 khẳng định bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sau đó, vào ngày 18/8/1945, vua Bảo Đại tái xác nhận nền độc lập của Việt Nam đã công bố vào ngày 11/3/1945.
 ψ
Cần lưu ý, tuy là một chính quyền thực tế và chính danh từ tháng 3/1945, nhưng Đế quốc Việt Nam không đủ lực lượng quân sự để kiểm soát tình hình. Đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị. Nhiều tổ chức và đảng phái hình thành trước đó đã tranh thủ thế đứng chính trị riêng trước vận hội mới của Việt Nam, trong đó Việt Minh dường như là lực lượng được tổ chức hoàn bị nhất, khả dĩ tranh giành quyền lực vượt trội.
 ψ
Từ ngày 19/8/1945 tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh tiến hành đảo chính cướp chính quyền, buộc nhà nước Đế quốc Việt Nam chuyển giao quyền lực, một sự kiện mà sau đó được gọi là “Cách mạng tháng Tám”. Trước tình thế đó, vua Bảo Đại quyết định thoái vị và giải tán chính phủ Trần Trọng Kim. Dù tồn tại không bao lâu và phải dung hòa ảnh hưởng của các thế lực quốc tế cùng chủ thuyết Đại Đông Á của Nhật, nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế chính trị độc lập và mang đến niềm hy vọng về nền tự chủ đầu tiên cho Việt Nam sau ngần ấy năm lệ thuộc Pháp.
 ψ
Ngày 2/9/1945, chớp thời cơ về một khoảng trống quyền lực và sự yếu kém của các đảng phái chính trị khác tại Việt Nam khi ấy, đại diện Việt Minh là ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trong một buổi lễ long trọng tại Hà Nội, và sau đó tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 ψ
Sơ lược lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động như trên để thấy rằng nhiều điều bấy lâu nay bộ máy tuyên truyền và giới sử nô mặc định là đương nhiên đúng rất cần xem xét lại một cách công tâm, chẳng hạn nội các Trần Trọng Kim có thật là “bù nhìn” không, và ngày 2/9/1945 phải chăng là ngày độc lập trên phương diện thực tế và pháp lý?
 ψ
Như đã nói trên, sau khi bị quân đội Nhật đảo chính tại Đông Dương, nước Pháp trên thực tế đã đánh mất quyền kiểm soát về chính trị và quân sự ở các nước này, dù họ chưa bao giờ muốn từ bỏ thuộc địa béo bở như thế. Với tư cách là một đại diện chính danh và hợp pháp của một chính quyền đã và đang cai trị đất nước liên tục từ năm 1802, vua Bảo Đại ngay lập tức tuyên cáo Việt Nam độc lập. Ông đã thủ giữ vai trò đại diện đương nhiên của quốc dân và quốc gia trong sự chuyển tiếp từ thể chế chính trị cũ sang thể chế mới, mà không một nhân vật chính trị nào đương thời hội đủ tư cách thay thế được. Do đó, xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11/3/1945.
 ψ
Vậy không lý gì đến ngày 2/9/1945 người ta lại cần tuyên bố độc lập một lần nữa, mà người tuyên bố đơn thuần chỉ là thủ lĩnh của một phong trào chính trị, dù là mạnh nhất trong số nhiều tổ chức và đảng phái khác nhau cùng tồn tại khi ấy, và người đó cũng chưa bao giờ được quốc dân lựa chọn hoặc công nhận, dù mặc nhiên hay bằng một thủ tục hợp pháp, là đại diện chính danh của quốc gia tính đến thời điểm ấy.
 ψ
Cần lưu ý, trước thời điểm 2/9/1945 danh tính Hồ Chí Minh chưa từng được biết đến rộng rãi như một nhân vật chính trị có uy tín, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ nổi danh như một trong các nhà cách mạng đương thời tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam mà thôi. Hai tên ấy của một con người vốn luôn thích bí ẩn, dù về sau rất nổi tiếng, vẫn chưa đủ mang đến cho ông tư cách chính danh và hợp pháp vào lúc đó để có thể đứng ra đại diện tuyên bố độc lập cho quốc gia.
  ψ
Tất nhiên, chân lý thuộc về kẻ mạnh, nên khi thắng cuộc người ta có thể diễn giải mọi sự kiện lịch sử theo ý riêng của mình, rằng ngày 2/9/1945, chứ không phải ngày 11/3/1945, trở thành ngày độc lập của nước Việt Nam mới. Tuy nhiên, với cách đọc sử không lệ thuộc vào ý thức hệ, từ lâu tôi đã bác bỏ lối tường thuật và nhận định lịch sử theo hướng bóp méo vì mục đích chính trị như vậy. Cho nên, nếu gọi đó là ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn có thể đồng ý, nhưng nếu áp đặt đấy là ngày độc lập thì dứt khoát không đúng, bởi với tôi chỉ có thể là ngày 11/3/1945 khi vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam độc lập mà thôi.
  ψ
Lê Công Định

Posted in Người Việt - Nước Việt, Tác giả trong nước | Tagged: | Leave a Comment »

Bước đường cùng.

Posted by Webmaster on August 31, 2014

Tác Giả: Huy Phương

cogai banbia

Một cô gái quảng cáo bia Anchor của Singapore tại Hà Nội. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này !

(Vú Em -Tố Hữu)

Ngày 15 tháng 8, Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam ra quyết định đình bản 3 tháng báo điện tử Trí Thức Trẻ và phạt 207 triệu đồng vì ngày 12 tháng 8 báo này đã đăng một bài có tựa đề là “Gái miền Tây và 3 chữ ‘N’ nổi danh thiên hạ” của tác giả Trai Toàn Cầu.

Ba chữ N đó là Ngoan, Ngon và Ngu. Bài này xem như đã vi phạm luật báo chí và chính ban biên tập đã ngỏ lời xin lỗi độc giả vì đã “gây nên sự tổn thương sâu sắc cũng như tạo cảm giác xúc phạm tới nhiều phụ nữ Việt Nam.”

Thật ra chuyện Ngoan, Ngon và Ngu không lạ gì với lời nói ngày xưa dùng để khuyên những người đi chọn vợ.

Ngoan nói về tính tình, ai lại không thích có một người vợ ngoan.

Ngon nói về thể chất và hình dáng bên ngoài, trắng da dài tóc, có nhan sắc, vì không ai muốn chọn vợ xấu.

Ngu nói về kiến thức. Phải ngu hơn chồng mới phục chồng, và không lấn lướt muốn dạy chồng. Không gì chán bằng cảnh ông chồng mới mở miệng phát biểu một câu thì vợ đã nói, “Chuyện này em biết rồi!” Vậy thì nên chọn một người vợ “ngu” hơn mình.

Nhưng ở đây bài báo lại dùng chữ “ngu” để vơ đũa cả nắm, cho con gái miền Tây ngây ngô và ngu muội, “não ngắn,” thiếu văn hóa. Tác giả cho rằng, “Về độ ‘ngon,’  thì tôi dám quả quyết không gái miền nào địch được gái miền Tây. Nhưng còn về độ ‘ngu’ thì phần lớn gái miền Tây cũng là những cô gái ‘ngu dốt’ vô đỗi !”

Không phải bây giờ, mà trước đây báo chí Việt Nam đã có những bài báo chỉ trích cay nghiệt con gái “Bắc Kỳ,” và rồi nay, những người “phụ nữ miền Tây” bị tổn thương vì sỉ nhục là ngu đần !

Cộng sản coi là đã thống nhất được đất nước nhưng lòng người thì ly tán, nhất là sau cuộc đổi đời 30 Tháng Tư, 1975, dân miền Bắc ồ ạt vào Nam lập nghiệp, được ưu tiên nâng đỡ trong việc lập nghiệp, chiếm đất, phá rừng, bây giờ ở Việt Nam đi đâu mà không nghe tiếng nói Bắc Kỳ 75. Người miền Nam chẳng ưa gì dân Bắc vào Nam trong tư thế kẻ thắng trận chiếm đóng, người miền Bắc tuy coi miền Nam là vùng tạm chiếm, bị bóc lột, nhưng gần như ganh tỵ vì choáng ngợp trước cảnh đời sống an nhàn, sung túc của dân Nam.

Người miền Trung và miền Bắc thường có quan điểm cho rằng người miền Nam là hời hợt, nông nổi, thiếu sâu sắc, không có căn bản văn hóa, mối giềng ràng buộc với họ hàng, làng nước. Ðiều này dư luận thường dùng để làm câu giải đáp cho việc “lấy chồng Ðài Loan” của con gái Việt Nam mà các thiếu nữ miền Tây đã dẫn đầu trong vài chục năm qua.

Những nhận xét về “gái miền Tây” lâu nay khá nặng tay. Một cán bộ của Ðại Học Tôn Ðức Thắng nhận định… “nhiều người dân ở vùng này chây lười nên không nhận thấy tầm quan trọng của tri thức !” Một bài khác trong Vnexpress cho rằng, “… đàn bà con gái chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage !” Và chỉ nội cái nhan đề trong Vitalk.vn, “Gái miền Tây lười, ít học và muốn một bước lên bà chủ !” cũng đủ là một điều xúc phạm chung cho cả một tập thể.

Vì đâu nên nỗi ?

Người đổ lỗi tại văn hóa, hoàn cảnh thiên nhiên ưu đãi mà không hề ai dám nói đến cơ chế xã hội và những gì là trách nhiệm của kẻ cầm quyền trong bao nhiêu năm nay. Một ông khoa trưởng một đại học lớn như Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã xác định … “nền giáo dục ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long còn quá yếu, đặc biệt với phụ nữ, đã đưa đến những hệ lụy trên !” Vậy thì thưa ông, chủ trương này từ đâu đến và sao không nghe ông than trách việc khách sạn, sân golf, nhà hàng đặc sản hoac cho ngoại nhân thuê đất để đẩy dân vào chỗ khốn cùng, để con gái họ phải thoát ra cảnh nghèo, vươn qua biên giới để mong mỏi có một đời sống tươm tất hơn.

Cũng không nghe ai nói, trước Tháng Tư, 1975, “con gái miền Tây” toàn là dân đi bán bar, làm sở Mỹ hay làm điếm hay đi lấy chồng Ðài Loan. Ðiều gì đã biến đổi đất nước nói chung và con gái miền Tây lâm thảm cảnh này !(?)

Có quý vị trí thức nào bỏ ra chút thời giờ để nghiên cứu xem xứ nào đàn ông Việt Nam đầu quân đi bán sức lao động xứ người, và vì sao Nghệ Tĩnh và Quảng Bình lại lắm người bỏ ruộng bỏ vườn “đăng ký” đi làm thuê để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không lẽ quý vị lại đổ tội cho chây lười, ít học hay chối bỏ quê hương nghèo khổ, truyền thống của mảnh đất này là thích đi làm “bồi” hoac sợ phạm đến mảnh đất “thiêng” mà không dám nói.

Một sự thật đau lòng là nhạc sĩ Tuấn Khanh, ở trong nước, trong blog của ông đã nói lên một điều, đáng lý phải làm cho chính quyền trong nước đỏ mặt. Các hội gọi là phụ nữ, các tổ chức nhân quyền vẫn thường có thói quen báo cáo tốt, đề cao thành tích, vẽ vời hình tượng người phụ nữ Việt Nam, nhưng có đất nước nào đã ở trong thời kỳ hòa bình, độc lập mà thân phận phụ nữ bọt bèo, trôi giạt khổ đau như người con gái Việt Nam ?

Sự thật là trong xã hội này, người phụ nữ bị đánh giá thấp, không hề được bảo vệ, che chở bởi công lý.

Những vụ án có liên quan về phụ nữ từ trước đến nay, phần đông phụ nữ đều bị thiệt thòi vì các loại đàn ông bên nguyên hay bên bị đều là loại nô bộc trung thành với đảng và nhà nước, và phụ nữ Việt Nam được xem không hơn một món đồ chơi !

Khi nói chuyện về đời sống của các cô gái miền Tây đi lấy chồng xứ người, blogger Tuấn Khanh được biết một sự thật rất là chua chát, nếu còn chút lương tri, hẳn các hội phụ nữ ở Việt Nam và cả cái cơ chế công an, cảnh sát xã ấp phải hổ thẹn. Khi hỏi về chuyện chồng Ðài Loan đánh đập, một cô gái đã cười hồn nhiên nói, “Không phải ai cũng bị như vậy, báo chí nói quá !  Nhưng nếu như có bị đánh ở Ðài Loan, tụi em còn được báo chí xứ đó lên tiếng giùm, chứ ở Việt Nam, lấy một ông chồng say xỉn rồi bị đánh chết cũng không ai lo cho mình !”

Ở đây chúng tôi không nhắc đến một loại kỷ luật chỉ có trong xã hội Việt Nam Cong San là cấp lãnh đạo thông tin, một loại “Ông Kẹ” mang hơi hướng “đảng” có thể làm tình, làm tội bất cứ cơ quan truyền thông nào khi họ cảm thấy bất như ý. Bài báo “ba N” có thể gây phẫn nộ cho quần chúng, thậm chí có thể ký giả bị bao vây hay tòa soạn bị đốt nhưng không thể vì lý do gì mà chính quyền phạt tiền hay đình bản. Phải chăng đây chỉ là một thái độ khúm núm, sợ mất lòng, vì trong Bộ Chính Trị hiện nay có bao nhiêu vị có mẹ, có em, có con là “gái miền Tây !”

Lên án ai đó là một công việc dễ dàng, nhưng đi tìm nguyên nhân mà và sự thật là một việc khó ! Không dễ dàng như một vị tiến sĩ xã hội học, đảng viên CSVN, đã nhận định rằng do ít ý thức về đức hạnh mà “phụ nữ Nam Bộ” thường hay lấy chồng ngoại (TK). Vậy thì ở Hà Nội, hoa hậu, sinh viên đại học có tên trong đường dây “gái gọi”, tan trường là lên giường, chắc không phải lý do là đức hạnh (?)!

Ba chữ Ngoan, Ngon và Ngu chưa đủ yếu tố để đưa “người con gái miền Tây” vào hoàn cảnh mà các “đạo đức gia” hay “đạo đức…giả” tha hồ bới móc, nói xấu. Quý vị cũng không nên quên một chữ N nữa, là chữ “Nghèo” khiến cho phụ nữ miền Tây phải lâm vào cảnh đi lấy chồng xa, hay chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage. Dân nghèo mạt, nhặt rác mỗi ngày không kiếm nổi tới $2, trong khi cán bộ công quyền giàu bạc triệu đôla, ăn xài huy hoắc bạc tỉ là ưu điểm của một chế độ XHCN chăng ?

Miền Tây “gạo trắng nước trong” ngày nay như thế nào ?
Báo Hậu Giang đưa tin: “Dân khổ vì ‘ 3 không ‘. Người dân tại các tuyến dân cư trên những con kênh mới hình thành ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, đang sống trong tình trạng ‘3 không’ : không nước sạch, không điện, không đường bộ. Trẻ em đến trường rất khó khăn, vậy thì sao cho là dân kém học vấn ?  Dân Hậu Giang còn nghèo, chỉ mỗi ấp 8 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, đã có 87 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có 28 hộ nghèo không có đất sản xuất. Vậy thì động lực nào đã xô đẩy hàng vạn cô gái miền Tây đi lấy chồng ngoại, nên câu nói “không có tiền thì ‘cạp đất’ mà ăn” đâu có gì là quá đáng ?

Ở đây có câu chuyện bà Phạm Thị Lài, 52 tuổi, cùng con gái là Hồ Nguyên Thủy, 33 tuổi, với thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân, phản đối chính quyền đã cướp đất để bán cho một công ty ngoại quốc trong dự án “Khu dân cư Hưng Phú”, sau khi chồng và cha của họ đã vì quá phẫn uất uống thuốc rầy tự tử !  Hai mẹ con bà Lài “đã bị đám VC vệ sĩ lôi trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình trạng khỏa thân dưới cái nắng gay gắt. Ðó chính là câu chuyện “hổ thẹn” nhất của đất nước trong năm 2012 xảy ra tại miền Tây, nơi mà một tờ báo “vô đạo” ngày nay đã lên án là cái xứ lười, ngu và con gái chỉ muốn đi bán bia, hay hành nghề massage.

Hổ thẹn không phải nơi hai mẹ con đã phơi bày cái chỗ đáng giấu của đàn bà, vũ khí yếu đuối cuối cùng phải đem ra để tấn công vào khuôn mặt quá dày, trâng tráo của chế độ CSVN, mà xấu hổ rơi về phía cường quyền VC, đã toa rập với xã hội đen, các thế lực đồng tiền, với sự trợ thủ của ngành công an đẩy người dân vào bước đường cùng !

Xin các nhà nghiên cứu văn hóa, các khoa bảng, trí thức hiện đang giữ các vai trò quan trọng trong các trường đại học hay trung tâm nghiên cứu, thích chuyên bố, rao giảng thứ kiến thức cổ lỗ, xin đừng ôm mãi cái não trạng mà danh từ hiện nay, người Việt trong nước đang dùng là “não ngắn,” đi tìm và đổ lỗi cho văn hóa, địa dư và những nguyên nhân xa cho cái “nghèo” cái “ngu” của gái miền Tây, hầu hết là để biện minh cho tình trạng hư đốn của chế độ CSVN !

Thân “vú em” năm xưa làm sao nhục nhã, khốn khổ bằng chuyện con gái Việt Nam đi làm gái mại dâm mười phương bây giờ (!) nên chưa lúc nào tôi thấy hai câu thơ của Tố Hữu thấm thía như hôm nay:
“Bạn ơi nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này !”

Huy Phương

Posted in Người Việt - Nước Việt, Tác giả hải ngoại, Văn, Đời sống quanh ta | Tagged: , | Leave a Comment »